Phía trước cổng vào mộ cũng có bức bình phong lớn khắc chữ Hán ghi vắn tắt phẩm
tước của Trịnh Hoài Đức và phu nhân. Thời gian và người lập bia cũng được ghi rõ:
“tháng 11 năm Ất Dậu, các con là Trịnh Thiên Lễ Nhiên, Trịnh Thiên Nhiên Bảo và
Trịnh Thiên Bảo phụng lập”.
Trịnh Hoài Đức sinh năm 1765, tự là Chi Sơn, hiệu là Cấn Trai. Tổ tiên ông vốn
là người Phúc Kiến (Trung Quốc). Khi nhà Thanh thay nhà Minh, vì không chịu thần
phục Thanh triều nên ông nội của Trịnh Hoài Đức đưa con cháu sang Việt Nam lập
nghiệp. Cha Trịnh Hoài Đức kết hôn với một người Việt và sinh ra Trịnh Hoài Đức
nhưng khi người con mới 10 tuổi thì ông bố mất. Mẹ ông là người đảm đang, đã dắt
con đến thọ giáo thầy đồ Võ Trường Toản. Tại lớp học của thầy, Trịnh Hoài Đức có
hai bạn học là Lê Quang Định và Ngô Nhơn Tĩnh. Cả ba đều nổi tiếng về văn chương,
thi phú. Họ lập nên Bình Dương thi xã cùng nhau xướng họa không thua kém gì Chiêu
Anh các do Mạc Thiên Tứ lập ra tại miền Hà Tiên. Người đương thời rất nể phục ba
ông, họ gọi là Gia Định tam gia. Năm 1788, chúa Nguyễn Ánh mở khoa thi ở Gia Định,
cả ba ông đều ứng thí và cùng đỗ đạt.
Con đường hoạn lộ của Trịnh Hoài Đức thênh thang từ đó. Ông lần lượt giữ
nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy cai trị của nhà Nguyễn, có lúc được cử làm
thượng thư của cả hai bộ: Lại (nội vụ) và Binh (quốc phòng). Nhiều lần, ông được cử
làm chánh sứ sang Trung Quốc.
Trong lần đi sứ đầu tiên nhân vua Gia Long lên ngôi (1802), ông có làm tập thơ
Quan quang tập (tức Bắc sứ thi tập - trong Cấn Trai thi tập), mà theo thạc sĩ Lê Quang
Trường (Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM) đã toát ra được phong
thái ung dung tao nhã của một sứ thần Việt Nam trong giao tế, đối đáp với các nhân sĩ
Trung Quốc bằng sự tự hào dân tộc, đồng thời cũng nói lên tâm sự của một sứ thần
người Việt gốc Hoa đã sinh ra, chịu ơn và thấm nhuần đạo lý văn hóa của dân tộc Việt
tại mảnh đất miền Nam. Trịnh Hoài Đức còn ứng xử khéo léo đối với triều đình Mãn
Thanh khi họ không chịu phê chuẩn quốc hiệu, còn với tư cách một văn sĩ khi giao lưu
với các nhân sĩ Trung Hoa ông lại tỏ ra rất tài hoa và lịch thiệp. Trong bài Sứ hành tự
thuật, Trịnh Hoài Đức còn nói đến sự ứng biến của ông khi nói tiếng Quảng Đông, khi
nói tiếng Bắc Kinh, và chuyện ông phải để râu để giữ gìn quốc thể.
Nguồn gốc “Nông Nại đại phố”
Hiện nay chúng ta vẫn hay nghe mấy từ cổ “Nông Nại đại phố” để chỉ miền Cù
lao Phố (Đồng Nai) mà không biết xuất xứ, thì ở đoạn chú thích từ một bài thơ trong
tập thơ Quan quang tập, chúng ta mới hiểu ra: “Sứ đoàn đến tỉnh Hồ Nam, gặp mặt
quan Tuần phủ Cao Kỷ, sau khi nói chuyện xong, Cao cầm lòng tay tôi, xem tướng chỉ
tay, nhân hỏi rằng: Sứ bộ là người Nông Nại, cái tên Nông Nại ấy, xưa nay chưa từng
nghe thấy, nay xem cách đi đứng nói năng của đoàn sứ bộ, thật là những người có văn
hóa, giống với phong tục của Trung Quốc, so với sứ giả trước đây từ An Nam đến thật
khác xa, ngỡ rằng Nông Nại là một nước xưa nào khác, văn học, phong tục, cương vực,