GỌI THỐNG NHẤT LÀ
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
Hiếu Giang
Từ năm 1950, Quân đội Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Quân đội nhân
dân Việt Nam. Tên gọi “Quân đội nhân dân” là do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt. Nhưng
quy định thống nhất tên gọi Quân đội nhân dân Việt Nam là từ tháng 9-1954.
Trước khi thành lập quân đội chủ lực của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Đảng ta đã thành lập các đội quân
vũ trang cách mạng tiền thân. Đó là lực lượng Tự vệ đỏ trong cao trào cách mạng Xô
viết Nghệ Tĩnh 1930-1931, Quân
du kích Nam Kỳ, Đội du kích Pác
Bó, Đội du kích Bắc Sơn, Đội Cứu
quốc quân 1, Đội Cứu quốc quân
2... Ngày 22-12-1944, Đội Việt
Nam Tuyên truyền giải phóng
quân ra đời, ngày này về sau được
chọn là Ngày thành lập Quân đội
nhân dân Việt Nam. Từ tháng 12-
1944 đến tháng 5-1945, Đội Việt
Nam Tuyên truyền giải phóng
quân đã tổ chức chiến đấu nhiều
trận và phát triển lực lượng nhanh
chóng.
Thực hiện Nghị quyết Hội
nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ
(tháng 4-1945, họp tại huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang), ngày 15-5-1945, tại xã Định
Biên (huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên), Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng
quân hợp nhất với Cứu quốc quân thành Việt Nam Giải phóng quân. Đây là đội quân
chủ lực, nòng cốt của lực lượng vũ trang cách mạng, hỗ trợ quần chúng trong Tổng
khởi nghĩa toàn quốc tháng 8-1945 và bảo vệ Lễ Quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa ngày 2-9-1945. Tên gọi Việt Nam Giải phóng quân tồn tại từ tháng 5 đến
tháng 11-1945. Sau khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, trước yêu sách của