dựng, hoạt động của Cứu quốc quân là vừa chiến đấu để bảo vệ, vừa mở rộng, phát
triển và củng cố khu căn cứ.
Trên cơ sở Cứu quốc quân và các đội du kích, tự vệ chiến đấu phát triển ở các
chiến khu Cao-Bắc-Lạng, Thái-Hà-Tuyên, để có một lực lượng chủ lực làm nòng cốt
thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ hơn, ngày 22-12-1944, Đội Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, theo chỉ thị của đồng chí Hồ Chí
Minh. Với việc thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã đánh dấu
bước phát triển về tổ chức của LLVT cách mạng, gồm ba thứ quân bước đầu hình
thành: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội quân chủ lực; đội du kích tập
trung của các tỉnh, huyện và lực lượng tự vệ cứu quốc, tự vệ chiến đấu ở khắp các làng
xã.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), cùng với sự phát triển của Đội Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân, hàng loạt đội du kích, tự vệ chiến
đấu tiếp tục hình thành ở các chiến khu, các căn cứ cách mạng trong cả nước. Điển
hình là Đội du kích Ba Tơ hình thành trong cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (3-1945), Trung
đội giải phóng quân ra đời ở chiến khu Quang Trung và Du kích cách mạng quân hình
thành ở chiến khu Trần Hưng Đạo. Các đội vũ trang này ngày càng phát triển trong cao
trào chống Nhật, cứu nước.
Để chuẩn bị một LLVT quy mô tổ chức lớn đón thời cơ chuyển lên Tổng khởi
nghĩa, Đảng gấp rút phát triển đội quân chủ lực, thống nhất Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân với Cứu quốc quân và các đơn vị vũ trang cách mạng thành Việt Nam Giải
phóng quân (15-5-1945). Sự ra đời của Việt Nam Giải phóng quân đánh dấu bước phát
triển về quy mô tổ chức của LLVT cách mạng của Đảng, gồm ba thứ quân cơ bản được
hình thành, trong đó các đơn vị Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc
quân hợp thành bộ đội chủ lực giải phóng quân; các đơn vị du kích tập trung của các
tỉnh, huyện chuyển thành giải phóng quân địa phương và các đội du kích, tự vệ tổ chức
ở các căn cứ vũ trang, từ miền Bắc vào miền Trung đến tận miền Nam.
Thực hiện mệnh lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt
Minh và đồng chí Hồ Chí Minh, Việt Nam Giải phóng quân cùng các đội du kích, tự
vệ chiến đấu trở thành lực lượng quân sự quan trọng, cùng toàn dân tiến hành khởi
nghĩa. Từ ngày 14 đến 18-8-1945, LLVT hỗ trợ nhân dân nhiều địa phương tiến hành
khởi nghĩa giành chính quyền ở các xã, huyện, tiến lên giải phóng thị xã. Từ ngày 16
đến 20-8, các đơn vị Việt Nam Giải phóng quân tiến đánh giải phóng các thị xã (nay
là thành phố) Thái Nguyên, Tuyên Quang. Đặc biệt, thắng lợi của khởi nghĩa ở các
thành phố lớn Hà Nội (19-8), Huế (23-8), Sài Gòn (25-8) đã đập tan sức kháng cự của
quân Nhật và bọn tay sai, góp phần tác động mạnh tới các địa phương cả nước khởi
nghĩa giành chính quyền. Đến ngày 28-8-1945, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền trong cả nước cơ bản hoàn thành.