thành chức năng và nhiệm vụ của mình trong các chiến dịch tấn công Hòa Bình (2-1952), Tây
Bắc (10-1952) bằng những quả đấm chiến lược. Bộ đội chủ lực ta đã đạt được bước phát triển
nhảy vọt trong chiến cuộc đông xuân 1953-1954, khi nhiều đại đoàn mới ra đời đã hình thành
tập đoàn chiến lược mạnh tiêu diệt tập đoàn phòng ngự mạnh nhất của địch ở Điện Biên Phủ,
đạt hiệu lực chiến lược lớn nhất, góp phần quyết định kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp.
Bộ đội chủ lực với sự phát triển mạnh mẽ của chiến tranh chính quy đã hỗ trợ và tạo
điều kiện phát triển chiến tranh du kích, thúc đẩy đấu tranh chính trị, nổi dậy vũ trang của
quần chúng trong vùng địch tạm kiểm soát, hỗ trợ đắc lực cho công tác binh vận, địch vận,
bảo vệ và phát triển vùng tự do, hậu phương của cuộc kháng chiến.
Bộ đội địa phương do Chủ tịch Hồ Chi Minh ra sắc lệnh thành lập từ 1-4-1949 được
hình thành và phát triển từ những đội du kích của các chiến khu, các địa phương từ những
trung đội, đại đội bộ binh, từ những đội vũ trang tuyên truyền, đại đội độc lập, tiểu đoàn tập
trung, tiến lên thành các tiểu đoàn mạnh, trung đoàn mạnh của tỉnh, thành phố, quân khu phù
hợp với nhiệm vụ, điều kiện cụ thể của địa phương, của từng chiến trường. Trong quá trình
kháng chiến bộ đội địa phương được xây dựng phát triển trong từng huyện, tỉnh, thành phố,
theo biên chế tương đối thống nhất, được huấn luyện phù hợp với nhiệm vụ, trang bị và vũ
khí chủ yếu là lấy của địch. Nhiệm vụ của bộ đội địa phương là làm nòng cốt cho đấu tranh
vũ trang ở địa phương, là lực lượng tác chiến tại chỗ, tiêu diệt tiêu hao quân địch, bảo vệ địa
phương, phối hợp với bộ đội chủ lực và dân quân du kích tiến hành những đợt hoạt động tác
chiến đến các chiến dịch tiến công và phản công, chống càn tại địa phương, hình thành và
phát triển thế trận chiến tranh nhân dân, chia cắt, phân tán, bao vây quân địch. Bộ đội địa
phương còn hỗ trợ đắc lực cho đấu tranh chính trị, nổi dậy phá tề trừ gian của nhân dân trong
vùng địch tạm chiếm, chống âm mưu gom dân, bắn phá, càn quét, bắt lính, tham gia diệt tề,
trừ gian, làm tan rã hàng ngũ địch, bảo vệ cơ sở chính trị, căn cứ hậu phương của nhân dân.
Bộ đội địa phương vừa tổ chức những đơn vị chiến đấu tập trung, vừa phân thành những đơn
vị nhỏ, vừa tác chiến tập trung, vừa tác chiến du kích.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, trình độ tác chiến, hiệu suất chiến đấu của
bộ đội địa phương của ta trong cả nước khá cao, phổ biến là tiêu diệt được trung đội, đại đội,
đồn bốt. Vào thời kỳ cuối của cuộc kháng chiến, bộ đội địa phương có nơi còn tiêu diệt được
cả tiểu đoàn địch.
Dân quân du kích, dân quân tự vệ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “là lực lượng của toàn
dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung
tàn thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, thì địch nào cũng phải tan rã” (Hồ Chí Minh: Toàn
tập, NXBCTQG, Hà Nội, 1995, t.5, tr.132). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng dân quân
du kích, dân quân tự vệ phát triển mạnh mẽ, rộng lớn trong khắp thôn, bản làng, xã với số
lượng hàng triệu, biểu hiện thực sự “mỗi quốc dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo
đài” trong cuộc kháng chiến. Nhiệm vụ của dân quân du kích là nền tảng của toàn dân đánh
giặc, là lực lượng bám trụ tại chỗ để đánh giặc, bảo vệ làng xóm, theo dõi, trinh sát, tiêu hao,
tiêu diệt quân địch rộng khắp, liên tục, gian chân, phân tán, chia cắt, bao vây quân địch, làm
cho chúng mệt mỏi, đui mù, đói khát; là lực lượng xây dựng, phát triển thế trận chiến tranh
nhân dân; là cơ sở để phát triển lực lượng vũ trang, phát triển chiến tranh du kích và chiến