Luc luong thoc sau quyet thang

Luc luong thoc sau quyet thang

1 Page 1

▲back to top
LỰC LƯỢNG THỌC SÂU QUYẾT THẮNG
Tô Kiểu Thẩm
Thiếu tướng Nguyễn Công Trang, sinh năm 1923, tại xã Tiên Tân, Duy Tiên, Hà
Nam. Ông hoạt động cách mạng trước tháng 8 năm 1945 rồi nhập ngũ vào đại đội 10
trung đoàn 34 Sau đó là gần 30 năm chiến đấu, trưởng thành trong sư đoàn B25, Quân
đoàn 2, mặt trận Thừa Thiên - Huế, Phó giám đốc Học viện Chính trị quân sự, Trưởng
khoa công tác Đảng, công tác chính trị, Học viện Quốc phòng, ông nghỉ hưu năm 1990
tại phường Hàng Mã, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Khi hỏi về Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ông là Phó chính ủy quân đoàn 2,
cùng với Bộ tư lệnh chỉ huy lực lượng thọc sâu chiến dịch tiến vào Dinh Độc Lập, bắt
nội cac ngụy quyền Dương Văn Minh đầu hàng không điều kiện, hồi 11 giờ 30 phút
ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông bồi hồi kể về kỷ niệm chỉ huy trận đánh cuối cùng của
mình: Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Quân đoàn 2 có nhiệm vụ: Một là tiến công tiêu
diệt địch ở tả ngạn sông Đồng Nai, Đánh chiếm căn cứ Nước Trong, Long Bình, cầu
Xa Lộ, hai chi khu long Thành, Nhơn Trạch và Thành Tuy Hạ, căn cứ hải quân Cát
Lái, bịt đường không cho địch ở Sài Gòn chạy ra biển theo sông Lòng Tàu và đưa pháo
tầm xa vào Nhơn Trạch bắn phá sân bay Tân Sơn Nhất. Nhiệm vụ thứ hai là tiêu diệt
địch phòng ngự ở hữu ngạn sông Đồng Nai, vượt sông đánh chiếm quận 9, quận 4.
Đồng thời tổ chức lực lượng thọc sâu, kịp thời phát triển theo xa lộ Sài Gòn tiến công
đánh chiếm Dinh Độc Lập và quận l, bắt liên lạc với các hướng khác của chiến dịch.
Trong khi đó, trên hướng tiến công của quân đoàn, địch đã tổ chức phòng ngự mạnh,
có chiều sâu, gồm Lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ 468, hai Lữ đoàn bộ binh là 1 và 4, Liên
đoàn biệt động quân số 33, 18 tiểu đoàn bảo an 4 Thiết đoàn xe tăng và xe bọc thép,
62 khẩu pháo lớn các loại. Ngoài ra còn hàng vạn học viên hạ - sĩ quan của các trường
thiết giáp, bộ binh, biệt kích nhảy dù của căn cứ Nước Trong, trường Cảnh sát quốc
gia và các khu huấn luyện và bọn tàn binh từ miền Trung dồn về. Để thực hiện nhiệm
vụ đánh vào nội thành Quân đoàn tổ chức một lực lượng thọc sâu binh chủng hợp thành
gồm: Trung đoàn 66 Sư đoàn 304 hành quân bằng 50 xe ô tô bánh hơi cùng với một
phần lớn Lữ đoàn Tăng thiết giáp 203, có một tiểu đoàn hộ tống tăng và đai đôi bộ
binh (Trung đoàn 18) ngồi trên xe thiết giáp, Tiểu đoàn pháo binh 4 (lữ đoàn 164), một
số khẩu đội pháo 85 ly bắn thẳng. Trung đoàn pháo cao xạ 284 thuộc Lữ đoàn 673, một
phân đội tên lửa phòng không A72, tiểu đoàn công binh 2: và đại đội cầu phà Lữ đoàn
219 và Trung đoàn 18, tất cả gần 400 xe, pháo các loại lực lượng này do sở chỉ huy
tiền phương của Quân đoàn trực tiếp chỉ huy. Cách đánh chủ yếu là đột phá trong hành
tiến, bằng sức mạnh hợp đồng binh chủng, phát huy uy lực của xe tăng, bộ binh cơ
giới, phát triển tiến công thật nhanh với phương châm thần tốc, táo bạo bất ngờ, chắc

2 Page 2

▲back to top
thắng của quân đoàn căn cứ vào mệnh lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Thần
tốc, thần tốc, thần tốc hơn nữa! Táo bạo, táo bạo, táo bạo hơn nữa!” Tranh thủ từng
giờ, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam Quyết chiến và toàn thắng. Bộ
Tư lệnh đã làm lễ trao cờ Quyết thắng cho lực lượng thọc sâu này tại một khu rừng cao
su phía Tây bắc Long Thành.
Được Bộ Chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh cho phép Quân đòàn nổ súng trước
các hướng khác một ngày, nên đúng 17 giờ ngày 26-4-1975, cuộc tiến công của toàn
Quân đoàn trên hướng đông và đông nam Sài Gòn bắt đầu. Địch đối phó quyết liệt
bằng xe tăng bịt các cửa mở pháo binh chi viện và máy bay ném bom nhiều đợt hỗ trợ
cho bộ binh lợi dụng địa hình phản công. Các đơn vị pháo cao xạ phòng không của ta
vừa hành quân vừa ngóc nòng bắn máy bay địch bảo vệ đội hình: trời lại nắng gắt, hậu
cần phải dùng xe téc chở nước sạch tiếp tế cho bộ đội. Sáng ngày 29 tháng 4, khi Sư
đoàn 304 tiến công khu vực ngã ba đường 15 thì lực lượng thọc sâu cũng vào tới phía
đông căn cứ Nước Trong. Địch phá cầu sông Buông, xe tăng của ta không qua được,
hai trung đoàn bộ binh 9 và 24 phải tổ chức vượt sông yểm trợ cho tiểu đoàn 3 (lữ
đoàn công binh 219) khắc phục cây cầu dài 40 mét. Nửa đêm ngày 29 tháng 4, tiểu
Đọàn 1 tăng - thiết giáp dẫn đầu đội hình thọc sâu tiến đến bắc cầu Sài Gòn (trên sông
Đồng Nai), bắt được liên lạc với trung đoàn 116 đặc công đã gíữ được cầu từ trước.
Đây là một thắng lợi ban đầu mở ra hy vọng cho Quân đoàn sẽ làm chủ một phần Sài
Gòn.
Vào hồi 4 giờ sáng ngày 3 tháng 4 Bộ chỉ huy phía trước của quân đoàn triệu
tập khẩn cấp cán bộ các đơn vị trong lực lượng thọc sâu để thống nhất về công tác quân
sự, chính trị, hậu cần; động viên tư tưởng quyết tâm cho bộ đội nhanh chóng vượt qua
cầu Sài Gòn, chiếm bằng được dinh Độc Lập, giữ nghiêm kỷ luật chiến trường và tác
phong quân nhân khi tiếp xúc với nhân dân vùng giải phóng. Khoảng 9 giờ 30 hôm
ấy, Quân đoàn điều tiếp tiểu đoàn 5 xe tăng từ khu vực Thủ Đức cho lực lượng thọc
sâu. Cầu Sài Gòn được đặc công bảo vệ nện địch không phá được, nhưng chúng vẫn
bố trí lực lượng mạnh và chướng ngại vật ở bờ nam để phòng ngự. Khi xe tăng ta tiến
vào đầu cầu phía bắc, địch cho máy bay và 8 xe tăng, xe bọc thép lội nước, 6 tàu chiến
hải quân cùng các loại hỏa lực bắn phá vào đội hình. Hai xe tăng của ta bị cháy, một
số cán bộ, chiến sĩ hy sinh ngay trên cầu Quân đoàn chỉ thị cho tiểu đoàn pháo cao xạ
phát huy hỏa lực bắn máy bay, không cho chúng ném bom phá cầu và hạ nòng cùng
pháo 85 ly tiêu diệt tàu chiến địch dưới sông; sư đoàn 304 đánh địch co cụm phía tây
cầu và tiếp tục cho xe tăng đột phá. Được chi viện tích cực lực lượng thọc sâu bắn cháy
2 xe tăng, 2 tàu chiến địch, áp đảo toàn bộ hệ thống phòng ngự của địch ở khu vực nam
cầu Sài Gòn. Khi tiến đến cầu Thị Nghè, lực lượng thọc sâu tiêu diệt 4 xe M41 và
M113 của địch. Do chiến dịch phát triển quá nhanh, cơ quan tham mưu không chuẩn
bị kịp bản đồ quân sự Sàí Gòn nhưng bộ phận xe tăng đi đầu được nhân dân giúp đỡ

3 Page 3

▲back to top
chỉ dẫn tới ngã tư Hàng Xanh rồi quẹo vào đường Hồng Thập Tự, vượt qua 6 ngã tư
tiếp theo đến ngã tư thứ 7 thì Dinh Độc Lập, hoàn thành nhiệm vụ của lịch sử giao phó.
Nguồn: Cựu chiến binh Việt Nam. Số tháng 4/2009, tr.2-3.

4 Page 4

▲back to top