miệng: “Sao trẻ thế mà đã là sư đoàn trưởng rồi?”. Tình hình vùng bắc giới tuyến hết
sức phức tạp, anh đã cùng các toán trinh sát, toán xung kích cùng ngày đêm lặn lội trong
rừng để chỉ đạo anh em cùng phối hợp với dân quân địa phương lùng sục, tóm gọn hầu
hết các toán biệt kích của ngụy. Khi Mỹ dùng không quân đánh phá miền Bắc, dự đoán
trước chúng sẽ tập kích vào các mục tiêu quân sự vùng bắc giới tuyến trong đó có Sư
đoàn 325 tại Quảng Bình, anh đã cho các đơn vị chuẩn bị sơ tán, xây dựng công sự, bố trí
hệ thống phòng không. Do chủ động, nên khi địch tập kích oanh tạc vào khu vực quân sự,
quân ta đã sơ tán nên không bị thiệt hại về người và trang bị, trái lại không quân địch bị
giáng trả đích đáng. Chiếc F8A do Thiếu tá phi công vũ trụ Su-ma-khơ đã bị bắn rơi tại
chỗ, Su-ma-khơ bị bắt sống. Đây là chiến thắng lớn trong trận đầu, mở màn cho các trận
chiến thắng không quân Mỹ trong những trận tiếp theo. Vừa giữ được lực lượng an toàn,
vừa bắn rơi được máy bay, bắt sống phi công Mỹ, cán bộ, chiến sĩ cùng nhân dân địa
phương rất phấn khởi và tin tưởng. Bà con Quảng Bình bảo nhau: Có Sư đoàn 325 của
ông Trân ở đây chúng tôi không hề sợ gì. Năm 1965, Sư đoàn 325B trên đường vào Tây
Nguyên, được lệnh của Bộ Tổng Tư lệnh tổ chức tiêu diệt căn cứ biệt kích hỗn hợp Mỹ-
ngụỵ tại A Sầu (tây Thừa Thiên). Với cương vị là Sư đoàn phó, anh đã cùng cán bộ, trinh
sát đêm đêm thâm nhập điều tra chuẩn bị phương án tác chiến. Do trận đầu đơn vị đánh
lớn chưa có kinh nghiệm nên gặp khó khăn, anh đã hướng dẫn cơ quan tác chiến xuống
trực tiếp với đồng chí chỉ huy trung đoàn, nắm lại tình hình, xốc lại lực lượng, bổ sung
phương án, kiên quyết dứt điểm. Tình hình gặp khó khăn, trong Bộ Tư lệnh sư đoàn và
cơ quan có những ý kiến mâu thuẫn khá gay gắt, nhưng với kinh nghiệm và bản lĩnh của
mình, anh là trung tâm hóa giải những mâu thuẫn trên dưới và cuối cùng ta đã tiêu diệt
hoàn toàn cứ điểm, mở thông hành lang cơ giới vào chiến trường Tây Nguyên. Ưu điểm
nổi bật của anh là trước tình hình khó khăn, dù khuyết điểm là của trên hay của dưới, anh
rất bình tĩnh tìm cách tháo gỡ để hoàn thành nhiệm vụ, không hề cay cú trước những vấp
váp của bất cứ ai.
Khi ở miền Bắc cũng như trong chiến đấu ở Tây Nguyên, những ngày rảnh rỗi anh
luôn gần gũi, tâm tình trao đổi chuyện trò với bộ đội như một người anh, không có sự
ngăn cách trên dưới. Trong thiếu thốn, anh quan tâm đến mọi người. Ban ngày đi chiến
đấu, có lúc đêm về anh cùng anh em tổ chức săn bắt tìm con chồn, con cheo về để cùng
nhau cải thiện. Chính anh lại là người đầu bếp, tự xào nấu để chiêu đãi anh em. Cuộc sống
hòa mình đã để lại cho mọi người không chỉ về tài năng của người chỉ huy, mà cái lớn
hơn là đức độ, là tình nghĩa anh em, trên dưới sống chết có nhau. Một lần từ chiến trường
ra trước khi đến thăm gia đình tôi, anh đã tìm đến gia đình đồng chí Trần Duy Uynh,
Trưởng ban quân báo để thông báo về trường hợp hy sinh của đồng chí Uynh và chia sẻ
nỗi đau thương với chị Phương, vợ anh Uynh cùng các cháu, rồi từ đó anh mới ra Hà Nội
báo cáo tình hình và gặp gia đình. Con người của anh là vậy. Luôn nghĩ đến nhiệm vụ,
quan tâm đến những người đã vào sống ra chết với mình, nhất là hậu phương của họ. Và
“câu chuyện huyền thoại của một người chỉ huy huyền thoại” cũng bắt nguồn từ những