chặt, Ban chỉ huy Cứu quốc quân quyết định rút hai tiểu đội ra khỏi căn cứ Bắc Sơn,
còn một tiểu đội ở lại hoạt động. Tháng 8 năm 1941, Cứu quốc quân chia làm hai
cánh rút về phía Lạng Sơn và Cao Bằng. Cánh quân do hai đồng chí Hoàng Văn Thái
và Đặng Văn Cáp chỉ huy rút về phía Lạng Sơn đã chuyển lên vùng biên giới Việt-
Trung an toàn, sau đó tham gia học quân sự ở Trung Quốc. Sau này, một số đồng
chí trở thành cán bộ quân sự cao cấp của Đảng. Cánh quân rút về phía Cao Bằng do
hai đồng chí Phùng Chí Kiên và Lương Văn Tri chỉ huy bị địch phục kích tổn thất
nặng. Đồng chí Phùng Chí Kiên hy sinh tại trận. Đồng chí Lương Văn Tri bị thương,
địch bắt giam ở nhà tù tỉnh Cao Bằng. Bị địch tra tấn nhiều, đồng chi ốm nặng đã hy
sinh trong nhà tù. Số Cứu quốc quân còn lại gồm 5 đồng chí thoát khỏi vòng vây của
địch, rút lên căn cứ Cao Bằng an toàn. Tiểu đội ở lại Bắc Sơn bị địch truy lùng ráo
riết, 6 đồng chí bị chúng bắt và xử bắn ở đồn Mỏ Nhài. Còn 4 đồng chí thoát khỏi
vòng vây của địch chuyển xuống căn cứ Võ Nhai. Đây là một tổn thất lớn đối với
Trung đội cứu quốc quân 1.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Hoàng Quốc Việt, ngày 15-9-1941, tại
Khuôn Mánh, xã Tràng Xá, châu Võ Nhai (Thái Nguyên), Trung đội cứu quốc quân
2 được thành lập gồm 47 người (3 nữ), biên chế 5 tiểu đội, do đồng chí Chu Văn Tấn
làm chỉ huy trưởng, đồng chí Nguyễn Cao Đàm làm chính trị-chỉ đạo viên, đồng chí
Trần Văn Phấn làm chỉ huy phó. Đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Ban thường
vụ Trung ương Đảng, công nhận, trao lá cờ đỏ sao vàng và giao nhiệm vụ cho trung
đội. Cuối tháng 10-1941, Trung đội Cứu quốc quân 2 phát triển lên 70 người, biên
chế 7 tiểu đội, do đồng chí Đào Văn Trường, Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc kỳ làm
Bí thư Đảng ủy kiêm chỉ huy trưởng, đồng chí Nguyễn Cao Đàm làm chính trị-chỉ
đạo viên; các đồng chí Chu Văn Tấn, Lê Dục Tôn, Trần Văn Phấn làm chỉ huy phó.
Trang bị vũ khí gồm 4 súng ngắn, 32 súng trường và súng khai hậu, súng kíp.
Giữa vòng vây của quân thù, Cứu quốc quân 2 vừa học tập chính trị, huấn
luyện quân sự, vừa tiến hành hoạt động. Đơn vị đã đánh một số trận tiêu biểu là các
trận Khuôn Kẹn (2-10-1941), Khuôn Ba (5-10-1941), Khuôn Đã (15-10-1941), Mỏ
Mùng (12-12-1941), Tràng Xá (31-12-1941)... gây cho địch nhiều thiệt hại. Chúng
đã gọi Cứu quốc quân là “hùm xám Bắc Sơn”.
Tháng 2 năm 1942, giặc Pháp tập trung lực lượng càn quét lớn vào khu căn
cứ Võ Nhai. Đồng chí Đào Văn Trường trên đường về xuôi báo cáo, xin chỉ thị của
Trung ương bị địch bắt. Để bảo toàn lực lượng và tránh tổn thất cho dân, đầu tháng
3 năm 1942, một tiểu đội Cứu quốc quân rút sang vùng Bắc Giang nghi binh địch;
tiếp đó, đại bộ phận Cứu quốc quân 2 rút khỏi vòng vây của địch, lên vùng biên giới