Son xuyen chi

Son xuyen chi

1 Pages 1-10

▲back to top

1.1 Page 1

▲back to top
TRỊNH HOÀI ĐỨC. Sơn xuyên chí / Trịnh Hoài Đức // Biên Hòa xưa. – Nxb.
Đồng Nai, 2012. Tr.18-38.
LONG ẨN SƠN (Núi Long Ẩn)
vphía tây, cách trn 4 dặm rưỡi, đất đá cao chót vót, cây cối tốt tươi, nó
làm bình phong sau cho Văn Miếu, thế núi quanh co đẹp đẽ, ở dưới có đá thủy tinh.
BỬU PHONG SƠN (Núi Lò Gốm)
phía tây trn cách 4 dm, phía tây nam trông xung sông ln, làm tm che
đằng sau ca núi Long n. Sui bàu tm nhun, dẫn tưới ruộng đồng. Trên núi có
chùa Bửu Phong, phía trái có đá đầu rồng đứng sng, phía phi có nhiều đá phẳng
mặt như thiền sàng, khói mây man mác, cây cối um tùm, văn nhân nghiêng chén
vịnh mùa đẹp, mĩ nữ ni gót kẻ hành hương, thật là thng cnh hng nht ca trn
thành.
QUY D(Hòn Rùa)
Hòn nm giữa dòng sông Phước Long, cách phía tây trấn đến 9 dm. Hòn dài
3 dm, ở đó có dân cư cày cấy, dưới có sông dài un khúc qun quanh, thuyn bum
ra vào, sóng xao khói lượn, khi n khi hiện như hình con rùa thần tắm sóng, đẹp nht
là cảnh mưa rơi.
BCH THẠCH SƠN (Núi Đá Trắng)
vphía tây, cách trn 10 dm. Núi rừng quanh co, nước sui róc rách, các
loài tê giác, voi, nai, hươu, ra vào từng by. Chân núi gối lên sườn c, phía nam
trông xung chợ Ngư Tân (chợ Bến Cá).
THCH HỎA SƠN (Hòn Đá Lửa)
Ở địa phn thôn Bình Thnh, tổng Phước Vinh. Gò đá từng khi lm chm,
có nhiu khối đá lửa. Khi tri nóng nng gắt thì đá nẩy la bn ra bn phía, trông
như sao sa.
ĐÀO CANG (Hòn Gò Đào)
Tc gi là núi Lò Gm, về phía đông, cách trấn 4 dặm. Đá dựng chp chng,
sóng nước lao xao, thuở xưa đây là chỗ nung sành ngói, cnh trí rt u nhã.
CHIÊU THÁI SƠN (nay gọi là Châu Thi)
phía nam cách trn 11 dặm rưỡi. Từng núi cao vót xanh lơ, cổ thrm tt,
làm tm bình phong chu vtrn thành, hình núi cao thp khut khúc, uốn lượn qua
hướng đông, giáp hạ lưu sông Phước Giang rồi đến gò Khổng Tước (Gò Công) thì
dt. Ở đoạn gia ti mt bắc nơi thôn Long Thành, giữa đồng bng tri ra mt gò
cao như vách dựng, sau lưng gò ấy là chỗ bà ni Lượng tu hành, có dng am Vân

1.2 Page 2

▲back to top
Tĩnh (tục gi là chùa Vãi Lượng) trông rt u nhã. Về sau quân Tây Sơn đập bchùa
Phật, nhưng nay nền cũ hoang phế vn còn.
cui hòn núi ny vphía bc ti ngã ba chra mt nhánh chạy đến địa phn
thôn Long Tuy thì dng ri bng ni thành gò cao bng phng rng rãi; bên núi
có hang hvà khe sui, dân núi ở ven quanh, trên đó có chùa Hội Sơn là chỗ thin
sư Khánh Long dựng gy tu hành, núi trông xung sông ln, hành khách leo lên
thăm, có cảm tưởng như tiêu sái thoát tục.
THẦN QUY SƠN (Hệ)
Tc gi là núi Ba Ba, có sui trong núi chy ra, là mch phát nguyên ca sông
Phước Long (tc gi ngọn sông Đồng Nai). Sui ấy có hòn đá lớn dáng như con rùa
cuộn chân, đầu thường ngó lên hướng tây, thì năm ấy mưa lụt bình thường, nếu quay
mình theo dòng sui ngó về hướng đông, thì năm ấy t có lt ln. y là vt thn t
nhiên, không phi là do sức người sp xếp nổi. Người dân núi ở đây thường xem đó
để biết mưa lụt ln nhỏ trong năm, cho nên gọi là núi Thn Quy (Rùa thn), lại cũng
gi là Thọ Sơn. Núi làm giới hn cui cùng cho phía tây ca trn, cách trn vphía
tây bắc hơn 445 dặm, nguồn xa xưa phát từ hướng chính bắc, sườn núi nguy nga,
hang động huyn o, làm hang , sóc cho các blc man, lào chia vùng mà ri rác
khắp nơi.
Sóng chính ca núi khí lực hùng vĩ, từ trong y chạy đến ri ni lên núi Quy
Sơn cao ngất, vtrí về hướng tây bc. Khi th(thy) là ngn núi Ha Tinh cao
nhn làm núi tcho một phương. Lại còn có nhiu hòn núi chạy giăng, trùng trùng
điệp điệp, mở ra như màn trướng theo hai bên thu, vây quanh phía bắc đến phía
đông, đồ sliên tiếp, đất đá lẫn ln, tc là núi Bàu Chiêng, núi Cha Chan, núi Lai
(Lây), núi Nc, núi Liên, núi Tiều Nghiêu và các núi Mô Xoài, núi Bà Địa, núi Thùy
Vân giáp bin mi hết.
Phía bắc núi Liên Sơn là trấn Thuận Thành là địa gii người man, phía nam
là trấn Biên Hòa cũng là địa giới man đã thuần thuc. Nhánh bên phi quanh lên
phía tây ri qua phía nam là núi C, núi Bà Rá, núi Lấp Vò, gò đống tri tht, qua
hẻm băng ruộng, có chhình trng bng, có chhình xâu chui, có nhiu tên gi và
hình trng khác nhau, lại có núi Bà Đinh núi Lò Yêm đến sông lớn nước Cao Miên
mi dt.
THIẾT KHÂU SƠN
Tc gi là núi Lò Thi, phía bắc Phước Giang, phía đông cách trấn 19 dm,
do sông Đồng Chân đi quanh qua phía bắc 3 dặm rưỡi là chLò St, ở đây gò đống
li lõm, rng rú xanh rậm, người làm st thp thành ch, mlò nung, cung np

1.3 Page 3

▲back to top
thuế st, qung st rt thịnh vượng. Năm Tân Mùi (1811) niên hiệu Gia Long th
10, có người tnh Phúc Kiến (Trung Quốc) là Lý Kinh Tú và Lâm Húc Tam xin trưng
thuế, mlò chế to rt tinh xảo, được nhiu st tốt, đúc làm nồi cho, thu nhiu li,
rồi sau đem hết ca ci vquê ở đất Mân (thuc tnh Phúc Kiến). y là chtrời đất
ân hugiúp cho dân nghèo kiếm sng vy.
KÝ SƠN (Núi Ký – còn gi là núi Ha Phát)
Tc gi là núi Bà Ký, y là lấy theo tên người.
về phía đông cách trấn 91 dặm, có đất đá, suối nước ngt, cây ci rm rp,
chim muông ttập, người bốn phương kéo đến , hchuyên nghề săn bắn và đẵn g
để sinh nhai.
NỮ TĂNG SƠN (Núi Bà Vãi, nay gọi là núi ThVi)
Tc gi là núi Bà Vãi, ở địa phn huyện Long Thành. Xưa có người con gái
họ Lê, gia tư giàu có, nhưng do kén chọn lthì, sau khi cha mmt ri mi có chng
nhưng không được bao lâu chồng cũng chết, bà thề không tái giá, nhưng bị kẻ cường
hào cy mai mối thường đến quy nhiu, bà bèn trốn đời xung tóc, lp am ở đỉnh
núi, tlàm bà thy c, kẻ ăn người ở làm đồ đệ, gilòng tu tp, sau thành chánh qu,
do đó người đời ly từ bà vãi mà đặt tên núi.
Núi nầy cách phía đông trấn 120 dặm, đất đá lởm chm, cây ci to ln um
tùm. Nếu đứng ở thành Gia Định mà trông thì nó giống như viên ngọc màu xanh
vàng bày ra nét đẹp. Dân núi ở đó lấy khai thác thsn ở núi để sinh sống, như cây
g, nha cây, than ci và muông thú.
LÀNG GIAO SƠN (Núi Làng Giao)
Ở địa phn huyn Long Thành, về phía đông bắc cách trn 132 dặm rưỡi. Có
đất đá, khe suối, cây ci um tùm, tri sách ca các dân tộc man đã thuần thuộc nương
theo chân núi cùng sng vi hùm, beo, tê, voi.
TRẤN BIÊN SƠN (Núi Trấn Biên)
Tc gi là núi Mô Xoài về phía đông cách trấn 145 dm. Hình núi cao ngt,
ckính, có nhiều hang nai, đồi thông, mây ph, thác sui, cnh trí tch mch, chu
về thành Gia Định txa, cnh núi trải ra đẹp đẽ. Lưng chừng sườn núi có động đá
sâu, quanh co cht hẹp chưa ai đi vào cho hết được. Có nhà sư tịch cc tên là Ng
Chân, dựng chùa Đức Vân nơi cửa động để tu hành, hng ngày chỉ ăn rau quả để
tng nim Pht hiu, thun phục được chùm beo, li gii vbùa cha bnh, thâu
được ltcủa người thì đem cấp cho người nghèo kh, khn cùng. Ấy cũng là một
vị cao tăng đắc đạo vy.
BÀ ĐỊA SƠN (Núi Bà Rịa)

1.4 Page 4

▲back to top
về phía đông bắc cách trn 176 dặm rưỡi. Núi đá lởm chm, cây ci xanh
tt, núi trông xung chLong Thnh, chn ngang giữa đại l; dân ở đó đào mở
đường giữa sườn núi để xe ngựa đi qua, hai bên đường tường đứng cao như vách, tợ
như dũng đạo vy.
SA TRÚC SƠN (Núi Sa Trúc)
Tc gi là núi Nứa, cách phía đông trấn 185 dm, trên núi có nứa, dưới núi có
chm lớn, người ttp làm nghề đánh cá.
THÙY VÂN SƠN (Núi Thùy Vân)
về phía đông cách thành 194 dặm. Thế núi đứng dựa nơi bờ bin, cao ln
đẹp lạ thường, đỉnh chc thng lên tri, nhìn thy có mây ttrên núi ta xung, cho
nên mi có tên y. Trên núi có chùa Hi Nht, là chtrông ra biển để đo bóng mặt
tri. Phía bc chân núi, cây ci xanh tươi, đó là hang lợn rng vnghỉ ngơi, ở chân
núi còn có đầm to tbin thông vào, gọi là Sơn Trư Úc (tục gi là bãi Heo), khi gió
nam thi mnh, tàu thuyền thường vào đậu đấy để tránh gió.
THÁT KY SƠN
Tc gi là núi Gành Rái, cách phía đông trn 243 dặm rưỡi. Phía bc ttrong
chm lớn băng qua khe rạch, thọp cát đá, chạy về hướng đông mà mọc ra, quanh
vòng qua hướng tây, uốn lượn dáng như con rồng xanh tm bin, ri ni lên 3 ngn
núi đá đứng sững như chân đỉnh gia bin; dng làm bãi neo ct nêu gia biển, để
chrõ bbến cho thuyn nam bc qua lại và ngăn sóng lớn dy cun suốt ngày. Đầu
núi làm ca phi cho Tắc Ký, đuôi núi làm bình phong che ngoài cho Cần Gi, phía
trong có vũng lớn làm chcho ghe thuyền neo đậu nghỉ ngơi. Trên núi có suối nước
ngọt phun ra, dưới có dân chài sinh sng, tht là mt ca bcó phong cảnh đẹp nht.
Ở đầu gành thường có rái cá xut hin, nên mi có tên là núi Gành Rái.
THN MẪU SƠN
Tc gọi là mũi Bà Kéc, làm ranh giới phía bc ca trn, cách trn 249 dm;
có những đá đứng dc theo bbiển, dưới có nhiu rạn đá, trên có nhiều động cát,
hay ni gió to sóng dbất thường, người đi thuyền đến đây luôn cẩn thn. Trong
động có miếu linh thThn Nữ ở núi, mt tin miếu trông ra đường cái quan, hành
khách chiêm lễ thường phi thành kính cúng bái và thgà sng, treo giy tiền để cu
thn phù h.
PHƯỚC LONG GIANG
Tc gọi là sông Đồng Nai, là mt sông ln phủ Phước Long, nên ly tên ph
đặt tên sông (sau phần đông phỏng theo như thế).

1.5 Page 5

▲back to top
Phát nguyên ca sông này rt sâu xa, sui vc sâu rng, xut phát tnúi Thn
Quy chảy ra, do nước đọng trong các núi, muôn hốc thông thương họp li nên dòng
nước mênh mông, chy xuống hướng đông cho đến Tiu Giang (sông Bé), xóm Sa
Tân (Bến Cát), một hướng chy về thác đá lm chởm, nước chy hung hãn him ác,
nên ghe thuyền không lưu thông được; nước thy triu chỉ lên đến đây là dừng,
thuyền buôn cũng đậu tại đây rồi lên trm thuế giao dch với người Thượng1.
Từ đây trở xung, sông rộng nước sâu, nước ngt trong veo là thứ nước có
tiếng tt nhất thành Gia Định để dùng gội đầu hay pha trà, dù nước sui Trung Linh
ở Kim Sơn hay Bạch Hc ở Ba Lăng (Trung Quốc) cũng không hơn được. Chy
xung mt quãng na thì cùng sông Tân Bình hợp lưu thành ra sông Phước Bình,
ri chy xung hướng đông ra cửa bin ln Cn Giờ. Thường đến tháng 8 hàng năm
nước lụt đổ xung, ra sch bao xú uế, lan ta khp ruộng nương, tuy lụt có ln nh
nhưng không sợ nn tràn ngập mênh mông, người chết, nhà trôi, bi vì sông này có
nhiu nhánh rút chy ra bin rt nhanh.
ĐẠI PHCHÂU
Tc gi là Cù Lao Ph, mt tên gi khác là Đông Ph(Gin Phố) cũng còn
gi là Cù Châu, bởi địa thế cù lao un mình khoanh duỗi hình như con cù bông giỡn
nước, nên có tên như vậy. Cù lao nầy cách phía đông trấn độ 3 dặm, dài hơn 7 dm,
rng bng 2 phn 3 bề dài, như con kim ngư trấn nơi thủy khu, cây trụ đá ngăn sóng
ln cho trn thành.
Phước Giang (sông Đồng Nai) quanh phía nam, sông Sa Hà (Rch Cát) vòng
phía bc, thuở trước có chiếc cu ván bc qua sông rng rãi bng phng, thông đến
trn l.
Hi tháng giêng năm Đinh Mão (1747) đời vua Thế Tông Hiếu Võ hoàng đế
thứ 10 Võ vương Nguyễn Phúc Khoát (Lê Hin Tông niên hiu Cảnh Hưng thứ 8;
Đại Thanh Càn Long th12) có khách buôn xứ xa người tnh Phúc Kiến (Trung
Quc) là Lý Văn Quang đến khách ngụ ở Đại Ph, thy cnh thái bình, võ bị lơ là,
lòng mng thm, bèn lén lút kết bè đảng hơn 300 người tự xưng là Đông Phố (Gin
Phố) đại vương, dùng Hà Huy làm ngụy Quân sư, Tạ Tam làm ngy Tả đô đốc, T
Tlàm ngy Hữu đô đốc, âm thm tính chuyn xng bậy, định đánh úp dinh Trấn
Biên, nhưng chỉ sợ Khâm sai Cai đội Cn Thn hu Nguyễn Cư Cẩn là người có võ
nghệ cao cường, nên chúng bàn mưu trước tiên phi giết ông Cn thì vic sdthành
1 Thượng: tên gi dân tộc ít người, nay không dùng na.

1.6 Page 6

▲back to top
như trở bàn tay. Nhân ngày Tết Nguyên đán, chúng bèn phc binh trong ph, ri
đem hơn 50 tên dũng cảm bày y phc theo kiểu đi mừng lễ ngày xuân, đến mng
tui ti dinh Cn Thn hu, tha lúc ngài vô ý csự, cùng rút đoản đao trong tay áo
chém Cn Thn hu bị thương. Cẩn Thn hầu lăn xuống vt chy chp ly ngn
phốc đao trên giá binh khí ở vách, giết được 5, 6 tên gic, chúng bèn rút lui, chy ùa
vào trại quân đoạt được mt số thương dài, rồi từ hai phía đông tây đánh ép. Lúc ấy
Cn Thn hầu đã bị trọng thương đuối sức, kéo đao đánh bước git lùi, không ng
cán đao bị vướng hàng rào cây khiến ông vp ngã, lin bgiặc đâm chết. Thế ri
thuc binh ca ông liền đến tiếp ng, quân gic chy vttp chn cầu để chng
cự. Quan Lưu thủ Cường Oai hu hNguyễn điều lính thy bca dinh dàn trn
bbắc, đốt phá cầu ván để cth, không dám tiến qua đánh dẹp, rồi đưa hịch báo
cáo cho Cai cơ Đại Thng hu Tống Phước Đại ở đạo Mô Xoài để cùng hip binh
đánh dẹp. Quan quân bắt được bọn Lý Văn Quang cùng bọn đầu shung ác 57 tên.
Nhưng nghĩ chúng nó là người ca Thiên triu (Thanh triu) không nên giết vi, bèn
giam chúng vào ngc rồi đem việc y tâu lên.
Mùa đông năm Ất Hi (1755), nhân có bhca Tổng đốc Mân Chiết (Trung
Quc) là Thiên tổng Lê Huy Đức, Bá tng Thm Thn Lang, Hồ Đình Phụng đi tuần
thú Đài Loan, thuyn bgió bão bạt đến nước ta, nhân đó phối hợp cùng tàu buôn để
đưa họ về nước, tin thể tháng 7 mùa thu năm Bính Tý (1756) (Lê Hiển Tông, niên
hiu Cảnh Hưng thứ 17, Đại Thanh Càn Long th21) soạn công văn và bản án k
rõ ti trng ca tặc đảng. Bn tù phm trnhng kẻ đã thọ thương bị bnh chết, hin
còn đám Lý Văn Quang, Hà Huy, TTcộng 16 người, giao cả cho đoàn Lê Huy
Đức lãnh gii vtnh Mân, trình lên quan Tổng đốc xét xtrti.
Từ đó cầu bphá bri dần dà cho đến khi Tây Sơn nổi lon vn không sa
lại được, nay phải dùng đò đưa người qua lại. Đầu phía nam cũng có bến đò đưa
ngang qua chBình Tiên (tc gi là chLò Giấy, khi quân Tây Sơn vào cướp phá
đóng ở đấy li gi chợ Đồn, thuộc đất thôn Bình Tiên), từ đó do đường bộ đến thành
Gia Định.
THCH NGHÊ (Cn Con Nghê)
về phía đông cách trấn 3 dặm rưỡi, nằm dưới dòng phía nam sông Phước
Giang, hình dạng hòn đá giống con nghê, đầu sng lra rt rõ, dài chừng 10 trượng,
bngang bng quá na bề dài, đứng ngược dòng nước, mt chu vca thành, khi
nước ròng sát trông thy rt rõ.
CTÍCH THCH

1.7 Page 7

▲back to top
Còn gi là Thạch Than (Thác đá) ở giữa Phước Giang, vphía nam Cù Lao
Ph, cách trn chng 4 dm nm thiên vphía bắc; mô đá gồ gh, ln nhchng
cht, làm cho thế nước chy xiết, sóng gió vỗ ầm ầm, người đi thuyền phi hết sc
cn thận. Dưới có con cá chép đen, mình lớn 6, 7 thước ta, mắt sáng như điện, vy
óng ánh như sao, mỗi khi đêm vắng canh khuya, nó thường đến trước miếu Chưởng
cơ Lễ Thành hu, nhảy qua thác, vượt qua sóng, bơi lội lên xuống, hình như thể vái
ly vy.
Phía bắc thác đá có vực rất sâu, là nơi tàu bể các nước đến núp đậu. Từ trước
thuyền buôn đến đây thả neo xong thì lên bthuê phố ở, đến nhà chmua hàng kê
khai toàn bhàng hóa có trong thuyn trình sthuế; chủ mua hàng định giá mua tt
chàng hóa xu tt không sót li thứ gì. Đến ngày trương buồm trv, gi là hi
Đường, nếu chthuyn mun mua thgì thì cứ kê khai trước, người chva theo
đơn đặt hàng mua dùm, hai bên chủ khách đều tin, thanh toán hóa đơn rõ ràng rồi,
khách cứ đàn hát vui chơi, đã được nước ngt sch s, lại không có lo trùng hà ăn
thng ván thuyn, chỉ đợi ti ngày lui thuyn, chở hàng đầy khoang mà vx.
Từ khi Tây Sơn dấy lon, quan quân vcả ở trn Phiên An, thuyền buôn cũng
di theo đậu ở sông Tân Bình, nên đến nay tình thế đã thay đổi, thuyn cp bến
không có chln mua mão bao tr, nên phải gánh đến các chbán llinh tinh, khi
mun mua thsản đem về, thì phải đi tìm đông, hỏi tây, rt nhc nhn. Li có bn
côn đồ địa phương khéo gidng làm người ân cn thành tht, di gt mua xong ly
hàng rồi tìm nơi buồm mt, nếu chthuyn mt mt ít svn thì còn gng chu mà
về, nhưng nếu mt vn quá nhiu thì phi đậu thuyền qua mùa đông (phàm thuyền
buôn người Tàu đến mùa xuân, thuận theo gió đông bắc mà đến, qua mùa hli
thun theo gió nam mà v, nếu cun buồm đậu lâu quá, thu sang đông gọi là lưu
đông, hay áp đông) để truy tm bn y khắp nơi, việc ấy làm cho người buôn đường
xa ngày càng cc kh.
NGÔ CHÂU (Cù lao Ngô)
vphía bắc lưu của Phước Giang, dài hơn 1 dặm, rng bng 1 phn 4 b
dài, cách phía tây trn 19 dặm rưỡi. Nguyên trước lin vi cù lao Tân Triều, năm
Giáp Tý (1744), niên hiu Cảnh Hưng thứ 4 vì có lũ lớn, bxói lchia làm 2, phía
đông thành cù lao Ngô phía tây thành cù lao Tân Triu, gia có mt sông nhva
cn va hp chia ranh gii, nhiu cát si nên chghe nhỏ đi chầm chm thì mi qua
lại được.
TÂN TRIU CHÂU (Cù lao Tân Triu)

1.8 Page 8

▲back to top
Nm ở trung lưu Phước Giang, cách phía tây trn 21 dm, dài 10 dm, rng 2
dặm rưỡi, dân ở đây chuyên việc làm vườn, nhưng chủ yếu trng tru vì tru ở đây
nhiu lá mà tt, mùi vlại thơm ngon, cho nên chỉ có tru Tân Triu là ni tiếng
hơn hết.
TÂN CHÁNH CHÂU (Cù lao Tân Chánh)
Nm về phía nam lưu Phước Giang, cùng nm tiếp lin vi Cù lao Tân Triu
và Cù lao Ngô bày thành 3 cù lao giăng hàng mà cù lao nầy thì lớn hơn hết, bdài
20 dm, rng 5 dặm rưỡi, cách trn vphía tây 20 dặm, đất ở đây tốt, thích hp vi
cây dâu và mía, nên ở đây sản xut nhiều đường cát.
BNG GIANG (Sông Lá Buông)
vphía tây cách trn 11 dặm rưỡi, phía trên tiếp vi 3 cù lao Tân Chánh,
Tân Triu và Ngô, hợp lưu chy xung ti gia ri to ra Kính Hsâu rng trong
xanh, trn áp vùng thượng du ca hòn Rùa, khói sóng chn vờn, núi sông tươi đẹp,
huyn ảo như bồng lai tiên cnh. Ở đây gồm thâu nhiu cảnh đẹp như vin phquy
phàm (bum vbến xa), bình sa lc nhn (nhn đáp bãi cát bằng), và tình nham d
(núi tạnh, đêm mưa) khiến cho người có cm hng phong cảnh Tiêu Tương, vẽ
thành tranh vy.
KIÊN GIANG (Rch Vp)
Ở phía nam thượng lưu Phước Giang, cách trn vphía tây nam 21 dặm rưỡi,
sông tphía bc chy qua nam, có rừng sâu khe đứt, giáp gii mt chm cn, khi
mưa lụt có thể thông đến dòng Cái Cát H, chy xung ngã ba Bàng Giang (gi là
ngã ba Cái Con) ri chy vào sông lớn Băng Bột.
ĐÔNG GIANG (Rạch Đông)
phía bắc thượng lưu Phước Giang, cách tây bc trn 52 dặm rưỡi. Ngược
dòng lên đầu ngun vphía bc 32 dặm rưỡi đến Thâm Tuyn, rng rú hoang vu,
thác đá nguy hiểm, ghe thuyn khó đi lại được. Từ đấy trở lên đều thuộc đất ca
người Thượng hung d.
TIU GIANG
Tc gi là Sông Bé tổng Phước Vinh, phía nam Phước Giang, cách trn v
phía tây 109 dặm rưỡi, phát nguyên từ 2 sách sơn man Võ Tam và Võ Viên quanh
co chy xuống hướng Đông 53 dặm đến thsTham Linh, bị thác gành ngăn cản,
ri chuyn qut ra phía bc 242 dm to thành ca Tiu Giang hợp lưu với Phước
Giang.
LA NHA GIANG (Sông La Ngà)

1.9 Page 9

▲back to top
phía bắc thượng lưu Phước Giang, sông này phát nguyên tnúi PhChiêm
thuc trn Thun Thành chy vnam. Li tnúi PhChiêm chy ra phía bc gi là
sông Dã Dương rồi vòng quanh núi Cp Cộp (nước sông chy xiết cọ vào đá, tiếng
kêu cp cp nên còn gi là núi Sông Bp) chy xuống đông rồi hợp lưu với ngun
Bàn Thch trn Phú Yên.
SA HÀ (Rch Cát)
Tc gi là Rch Cát, y là bắc lưu của Phước Giang, cách phía đông trn 3
dặm rưỡi. Sông này chảy quanh Cù lao Đại Ph. Li có tên là Hậu Giang, đầu phía
tây nhiu khúc cạn, khi nước ròng thì li bộ qua được.
AN HÒA GIANG (Sông An Hòa)
vphía bắc Phước Giang, cách trn về phía đông 19 dặm. Ngoài ca sông
là sông Đồng Chân, chy ra bc na dặm đến chợ thôn An Hòa, trước kia đây là bến
để g, cho nên còn gi là Bến Gỗ, qua hướng đông bắc na dặm đến ca sông Thiết
Tràng (tc gi là rch Lò Thi, về hướng tây bc 3 dặm rưỡi nữa đến chLò Thi
là cùng ngun) ri chy 4 dm na hợp lưu cùng sông Bối Dip (sông Lá Buông).
KÍNH CHÂU
Tc gi là Cù lao Cái Tt, hạ lưu Phước Giang, cách phía đông nam trấn 21
dặm rưỡi. Cù lao dài 13 dm, rng 7 dm, có ruộng nương nhà cửa ca dân ở đó.
Phía trái cù lao là Đông Giang, rộng ln mênh mông, sóng gió chp chùng; phía bên
đông Đông Giang thông với 3 đường sông Bi Dip (sông Lá Buông), Thanh Thy
và Đồng Môn. Phía hu là Tây Giang, tuy có hp nhphần nào nhưng lại đường tt
gió lng, ghe thuyn ln nhqua lại đều đi đường đó. Chỗ đuôi cù lao, hai sông
Đông Giang và Tây Giang hợp lưu, gọi là sông Lan Ô (sông Chàng Hng), sông
rộng nước sâu, nước bùn đục ca các sông chảy đến đây đều được lng lc trnên
trong sch. Khúc sông này li có cù lao ln chặn hai đầu trên xuống dưới, nên ch
y có nhiu gió cun, li do nhiu dòng nước chy xiết va chm nhau thành sóng
lớn, dao động bất thường. Phía đông hạ lưu sông Lan Ô có cù lao Văn Mạnh (cù lao
Mui Mòng), cù lao này dài 4 dặm rưỡi, rng 4 dm, che lp cửa sông Mao Đằng
(tc danh Rch Choi thsn có dây chi); ccây ở đây rậm rp, sinh nhiu ging
mui mòng nên có tên ấy. Đoạn sông này chy tán lon ra nhiu ng, sau mi chy
gp vchcuối cùng, đó cũng là cửa sông Tam Giang Nhà Bè.
BI DIP GIANG (Sông Lá Buông)
Tc gi là rch Lá Buông, ở đấy có nhiều cư dân sinh sống bng cách ly lá
buông dt buồm, đan tấm, đánh dây, chặt tàu đem bán sinh nhai, nên mới gi tên
như thế. Sông ny hạ lưu sông Phước Giang, phía đông sông Đông Giang, cách

1.10 Page 10

▲back to top
trn 30 dm, sông nhỏ mà dài, ngược vngun 10 dặm đến thượng khu Nguyt
Giang, li thêm 10 dặm rưỡi nữa đến thượng khẩu sông Đồng Chân, 23 dm nữa đến
cầu ngang đường cái quan, 10 dặm đến phân thBi Dip, 27 dặm đến phn sông
Ngã Ba; nơi đây nước chia 2 nhánh đông tây; nhánh phía đông chảy quanh qua bc
50 dặm đến Thâm Tuyn (Sui Sâu), là cùng ngun ri chy vào chân núi Làng
Giao. Nhánh phía tây chy quanh qua bắc hơn 24 dặm đến thác Xung tc gi Hàn
Kiết, đá thác chn cứng, trên đấy là nơi chợ trao đổi hàng hóa ca các dân thuc
man. Ghe thuyền đi đến đây là tận cùng, còn như gốc ngun ca nó thì trong núi
sâu xứ Cao Miên, nước thường chy róc rách từ đó ra.
ĐỒNG MÔN GIANG (Sông Đồng Môn (Đồng Mun))
hạ lưu sông Phước Giang, phía đông sông Đông Giang, cách trấn hơn 35
dm; ca sông rộng 8 trượng, sâu 1 trượng, chy về hướng đông bắc 21 dặm đến
ming sui Tông (tc gi là sui Ung), btây chy về hướng tây 5 dặm rưỡi đến
cu Thanh Thy ở đường cái quan ri hp với thượng lưu sông Thanh Thủy, 3 dm
nữa đến ming sui Quán Th(sui bbắc), đi ngược theo hướng tây bc 6 dm
rưỡi đến cu ngang Quán Th, 20 dm nữa đến nơi cùng nguồn. Bnam có đóng
năm đồn đất, na dặm đến cầu ngang, đầu cu phía bắc đi 1 dặm rưỡi đến ths
Đồng Môn (Mun) ra đường cái quan. Đầu cu phía nam đi 13 dặm rưỡi đến chsông
Mao Đằng (sông Choi), từ đây chảy thêm mt dặm rưỡi nữa là đến cùng suối. Đến
cách chợ Đồng Môn (Mun) mt dặm, đi về phía đông nửa dm đến sông Tro Tro,
chy hp lại phía đông bắc 2 dặm đến ca suối Đồng Hươu, từ ca suối ngược lên
phía tây 3 dặm đến cầu ngang Đồng Hươu, hiệp với đường cái quan, li chy 31 dm
đến Án Tuyn (suối Án) là nơi cùng nguồn vy. Tming suối Đồng Hươu chảy v
hướng đông 13 dặm rưỡi ri hiệp lưu với sông Ký.
KÍ GIANG (Sông Bà Kí)
về phía đông cách trấn 91 dm; sông này chy tNam lên Bc, dài 12 dm
rưỡi, đến Đại Tuyn (sui Lớn) là nơi cùng nguồn thì dng li. Giữa có đường cái
quan, có cầu ngang để thông qua li, ca sông chy về đông hợp với sông Đảo Thy
(tc gọi là Nước Ln), ri chy ra ca sông ln Mô Xoài. Sông chy vtây hp vi
sông Đồng Hươu, qua sông Đồng Môn (Mun) ri chy ra sông lớn Phước Long.
PHÙ GIA TAM GIANG KHU (Ca Tam Giang Nhà Bè Ngã ba Nhà
Bè)
Nước ngọt sông Phước Long tbc chảy đến, nước lsông Tân Bình tnam
chy li, hợp lưu chảy xuống đông tạo thành sông Phước Bình, y là ca Tam Giang,
nước toàn mn cả. Cách phía đông nam trấn 73 dặm rưỡi, từ đấy trxuống hướng

2 Pages 11-20

▲back to top

2.1 Page 11

▲back to top
nam bc có nhiu sông nhánh, duy mt di sông ln chy xuống đông, đổ ra ca
bin Cn Giờ. Xưa khi mới đặt 2 dinh Trn Biên và Phiên Trấn, mà đường bBình
Đồng chưa mở, hành khách đi lại phải đáp đò dọc. Đầu bến đò phía bắc bến Sa Hà
(Rch Cát) thuc dinh Trấn Biên, đầu bến đò phía nam ở đầu cầu đò tổng Tân Long
(tc danh Cầu Đò, ở địa phận thôn Tân Hương, nay vẫn còn). Phàm người đi thuyền
khi hành tTrn Biên, phải đợi khi nước ròng thun dòng mi cho thuyền đến ca
Tam Giang, đến sông Tân Bình, đến đây lại gặp nước ngược phi cm thuyền đợi
khi nước lên thì mi thuận dòng đi tiếp. Còn kkhi hành bến đò phía nam cũng
phi la thế đi như vậy. Thuở ấy, dân cư còn thưa thớt, ghe đò hp nh, hành khách
thổi cơm, đun trà rất kh, vì vậy có người phú hộ ở tng Tân Chánh là Võ ThHong
kết tre li làm bè, trên che lp phòng c, sắm đủ bếp núc, go, củi, và đồ ăn để dưới
bè cho hành khách tùy ý dùng mà không bt phi trtiền. Sau đó khách buôn cũng
kết bè nổi bán đồ ăn nhiều đến 20, 30 chiếc, nhóm thành chtrên sông, nên mi gi
xứ ấy là Nhà Bè. Sau này đường thủy, đường bộ lưu thông, dân cư đông đúc, người
qua lại đều dùng ghe nhà nên đò dọc phi dp b. Tri qua cuc loạn Tây Sơn, Nhà
Bè tan rã, đến nay cũng không làm lại.
BĂNG BỘT GIANG (Sông Băng Bột)
Ở nơi cuối cùng ranh gii phía tây bc trn. Phát nguyên tchằm Đồng Nhai
(chm tròn rng sâu trong, cây ci rm rp là chỗ ở ca blc man dã Đồng Nhai)
chảy quanh qua hướng đông, nước ngọt đầy tràn qua đến địa đầu trn Phiên An làm
thành sông Tân Bình, thì nước li l.
NGŨ CÔNG THAN (Thác Năm Ông)
ti ngun Trc Thủy (Nước Đục) trên phía tây sông Băng Bột là ranh gii
cui cùng phía tây nam ca trn. Tngun ca nó là ca sông Tân ở trước miếu Ngũ
Công đi về hướng nam có thác đá chênh vênh gồ ghlồi lõm, nước tung sóng v,
chy mnh qua gồ đá cao, chỉ dân chuyên nghip dùng thuyền độc mc nhmi dám
liều đi qua. Những tay sào chống đỡ trước sau, gigìn hết sc lc, nếu chmt chút
sai sót lin blt chìm, bnát.
Ngược dòng lên hơn 215 dặm đến thác Tà Môn, 30 dm nữa đến thác Hóp
(Hp, Ngáp), na dặm đến thác Ln, 1 dặm đến thác Tà Má, 17 dặm đến thác Chế
Yêm, 2 dặm rưỡi đến thác đá Tà Nông, 54 dặm đến ngã ba sông Tràm, ở đây nước
chia ra 2 nhánh, nhánh chảy hướng tây nam tc gọi là sông Tràm. Ngược dòng lên
18 dặm đến thác đá Tà Vẹt, nơi đây nước chy cạn có đá nhô ra, rặt thú dvà dân
man núi ở, đầu ngun còn xa gn thế nào thì không thể rõ được. Nhánh tây bc gi

2.2 Page 12

▲back to top
là sông Dụ, đi thêm 13 dặm đến thác đá Tà Khuông, cửa đá lấp đóng, thâm lâm cùng
cốc, nơi dân mi2 dchiếm c, nếu muốn đi đến cùng đầu nguồn cũng không được.
LÃO TỐ CƯƠNG (Giồng Ông T)
tng An Thy, huyn Bình An, làm gii hn phía nam ca trn; có gò ni
cao, bng phẳng quanh co, nơi địa khí hi t, cây ci tốt tươi, gò dài 7 dặm rưỡi,
rng 3, 4 dm, có sông nhtphía bc chảy vào nam, bao quanh phía trước. Đây là
gò đất bng phng ca hnúi Chiêu Thái (Châu Thi).
CẨM ĐÀM
Tc gọi là vũng Gấm, tng An Phú, huyện Phước An. Vũng này sâu rộng
do các dòng chảy đến hp li, có khi mt tri chiếu txa ráng chiu phn chiếu
xung, sc cây xanh tốt, sóng nước long lanh, xa trông rt rc r, nên mới đặt tên
Gấm là như vậy. Trong vùng có nhiu cá sấu thường bắt người ăn thịt, người qua li
phi hết sc cn thn, nên mi có ngn ng: Hung ác như cá sấu vũng Gấm.
TOÁI ĐÀM
Tc gọi là Đầm Nát, ở địa phn huyện Phước An. Đầm do các sông hp li,
thông khp các no; cồn bãi trùng điệp, ngành nhánh quanh co, ngang dc chng
cht hp ri tan, rng chm rm rạp, trước sau trông không thy nhau. Thuyền đi khi
thun khi nghịch, đang đi phía trái bỗng chuyn phía phi. Nếu chquên mt chút,
t phi lạc đường, cho nên người ta phi hết sc cn thận. Nơi đây không có dân cư
làng mạc, cho nên tuy người đã quen đường mà đi một mình đến đây cũng phải ng
ngmà tm dng lại, đợi khi họp được nhiu thuyn cùng nhau hỏi han, sau đó mới
kết đoàn mà đi. Lại còn có bn trộm cướp n núp ở đây, người buôn bán thường hay
bchúng hại. Năm Gia Long thứ 12 (1813) có chia đặt trm sông, mi trạm đều có
lính trạm trú đóng, không nhng vic chuyn công văn được mau lmà nn trm
cướp do đó cũng được dẹp tan, nhân dân nơi đó được nh.
THT KGIANG
Tc gi là Ngã By, ở vì phía đông sông Phước Bình, phía nam có ngã ba,
phía bắc có ngã tư hình chữ thp, nên gp li mi có tên là Ngã Bảy. Nhưng ở đây
có nhiu ngã ba và nhiều ngã tư hình chữ thp mà tên y không thchỉ định mt
chnào. Bi vì hthng sông này chng cht xiên xrt phc tp, xuyên qua nhau
mà chảy, đáng đặt tên là sông Hỗn Đồng (trn ln) chchng nên câu nbi cái tên
Tht Kì.
2 Mi (sic): tên gọi đồng bào dân tộc ít người, nay không dùng na (NXB).

2.3 Page 13

▲back to top
DƯƠNG ÚC (Vũng Dương, còn gọi là Vũng Dang)
Nơi đây gần bãi bin ở phía đông của trấn, dân cư tụ tập, đồng mn ngàn
khoảnh, đều là rung mui. Dân ở đây lấy việc phơi muối làm nghchính.
HƯƠNG PHƯỚC GIANG
(Tc là sông Mô Xoài, là nơi 2 thôn Long Hương và Phước Lễ cùng đài thọ
lính trạm). Ngược dòng lên phía bc chuyển qua phía tây đến sui Châu Phê gp
sui Giao Kèo, qua Thâm Tuyn (suối Sâu) đến đầu ngun sông Mông Giang, tc
gi là sông Xoài, dài 15 dm, chy qua nam độ 4 dm là ca sông lớn Hương Phước
ri hợp lưu cùng các sông khác.
TC KÝ (Ca Lp hay Giếng Bng)
Cách trn về phía đông 210 dặm. Lòng cng có cn cát dời đổi bất thường.
Ca cng bngang rng 90 tầm, khi nước lên cng sâu từ 13 thước ta trlên, 17
thước ta trxung. Dân min biển nhóm đến đây làm nghề chài lưới câu cá, là nơi
sn xut cá mui ca trn này.
THUYN ÚC
Tc gọi là Vũng Tàu, ở về phía đông cách trn 234 dặm rưỡi. Lưỡi đất phòi
ra ngoài bin, càng ra xa càng ln. Phía bc bao ly ca Tc Ký, phía nam da vào
Thát Sơn (núi Gành Rái), che khuất ca bin Cn Gi. Thế đất trông rt sung mãn,
mặt vũng hướng về tây, lòng vũng to rộng là nơi thu kết các dòng nước nhca các
sông đầm và các ngòi rch chy vbiển, làm nơi ghe thuyền đến đậu rt yên n.
XÍCH THỔ (Đất Đỏ)
Là đất gồm 7 xã thôn phường: Phước Hòa, Phước An Trung, Phước Lc
Thượng, Phú Thnh, Long Thi, Long Hòa và Thi Thnh thuc tổng Phước Hưng,
huyện Phước An. Vùng ny trng dâu, mè, bắp, khoai, đậu, xanh tốt sai đẹp. Cách
Nc Giang nửa ngày đường có dân trn Thun Thành sng chung ở đó. Đất nơi đây
sắc đỏ vàng nên người ở đây có nước da vàng ng, áo qun vt dng tuy ct kín
trong rương tủ, nhưng sắc cũng biến thành màu vàng, vì khí đất nhim vào.
XÍCH RAM GIANG (Sông Xích Ram)
về phía đông bắc cách trn 209 dm, có cu ván bc ngang. Sông dài 173
tầm, là nơi đường bộ đi ngang qua, nước sâu 5 thước ta. Phía hạ lưu của cu chuyn
quanh vào nam 3 dm là cng bin Xích Ram, khi thy triều lên sâu 10 thước ta,
rộng 33 trượng rưỡi, cng dời đổi, thông kt bất thường. Tcầu ngược lên phía tây
28 dặm rưỡi đến cu Thch Than, ở đây thác đá trùng điệp, ghe thuyền khó đi, lại
ngược dòng quanh co 30 dặm đến Lai Giang rồi quanh qua tây nam đi 92 dặm rưỡi
đến sui DLao H. Li quay vnam 46 dặm đến sui Dạ Lao Thượng rồi đến địa

2.4 Page 14

▲back to top
hạt đồn Đồng Môn, một đường mà núi rng sm ut, buôn sóc ca các dân man đã
thun chia nhau sinh sng, họ đều np thuế và đi phu dịch.
HẢI ĐỘNG H
Tc gi là HTràm, cách trn về phía đông bắc 227 dặm rưỡi. Nơi đây, động
cát ni lin, ccây xanh tt, trong có hlớn xanh trong, nước đều ngt c, không
khi nào khô, mọi người đều nhờ nước y.
RNG SÁC
TTam Giang Nhà Bè, xuống phía đông đến ca Cn Gi, phía bắc đến ca
Tắc Ký, phía tây đến Ký Giang, trong khong ấy có đến trăm ngàn cồn bãi, các bãi
ấy đều có rng chm c. Cây ở đó gọi là cây dà, đước, sú, vt và nhng cây tp khác,
rng xanh cây rm, tán nhánh giao nhau, che kín mt trời. Người ta dùng nhng cây
ấy để làm nhà ca, rào giu, ct cc, than ci, không ngày nào ngt. Còn hi sản như
cá, tôm, cua, sam và c len thì bt dùng không hết mà cũng không ai ngăn cấm. y
là chchí công vô cùng ca trời đất ban cho để nuôi dưỡng người dân Gia Định vy.