TRỊNH HOÀI ĐỨC. Đề trần tướng quân miếu / Trịnh Hoài Đức // Biên Hòa
xưa. – Đồng Nai : Nxb. Đồng Nai, 2012. – Tr.548 – 549.
ĐỀ TRẦN TƯỚNG QUÂN(1) MIẾU
Quốc phá thần tâm bất nhị thao,
Trần gia nhất diệp tế phong đào.
Đồ cùng ninh tắc sào Nam điểu,
Mệnh kiển không hoài phạt Bắc đao.
Thiết lũy chí kim hàn Lạp phách,(2)
Nhai châu tòng thử tuyệt Minh mạo.
Hành nhân diệc hữu anh hùng lệ,
Vị hướng từ tiền tửu nhất kiêu.
Dịch nghĩa: ĐỀ MIẾU TRẦN TƯỚNG QUÂN
Nước mất kẻ bầy tôi vẫn không hai lòng,
Nhà họ Trần một lá thuyền vượt sóng gió.
Đường cùng đành làm chim làm tổ ở phương Nam,
Mệnh gặp trắc trở suông ôm chí vung đao đánh Bắc.
Lũy sắt đến nay còn làm cho Chân Lạp sợ,
Nhai châu từ đấy tuyệt bóng cờ Minh.
Người qua đường cũng có dòng lệ anh hùng,
Đến trước đến tưới rượu xuống đất.
Chú thích: (1) Chú thích của tác giả: Trần, Tổng binh nhà Đại Minh tên Thắng
Tài, người ở huyện Ngô Châu, phủ Cao Châu, Quảng Đông. Nhà Đại Thanh bình
Quảng Đông, nhà Minh mất, quân thua liền mang gia quyến và binh biền đáp thuyền
sang nước Nam. Triều đình cho lệ thuộc vào tướng súy giữ đất Gia Định, giao đất cho
để lập công. Mất được truy tặng chức Phụ quốc Đô đốc, xuân thu hai lần tế.
(2) Chú thích của tác giả: Chân Lạp lúc bấy giờ dùng dây sắt chăng ngang sông
cự chiến, Trần phá được, buộc phải hàng. Sau dựng đền ở chỗ ấy, tên đất là Thiết Lũy.
Dịch thơ:
Nước mắt bầy tôi chẳng đổi lòng,
Thuyền Trần rẽ sóng vượt cuồng phong.
Cành Nam tổ đã đành tâm kết,
Dẹp Bắc đao còn giận muốn vung.
Lũy sắt tới nay quân giặc khiếp,
Nhai châu từ đó thế Minh cùng.