Triet ly nhan sinh trong tho Trinh Hoai Duc

Triet ly nhan sinh trong tho Trinh Hoai Duc

1 Page 1

▲back to top
HUỲNH VĂN TỚI. Trịnh Hoài Đức công thn nhiều công đức : Triết lý
nhân sinh trong thơ Trịnh Hoài Đức / Huỳnh Văn Tới // Báo Đồng Nai điện t.
2023. Ngày 01 tháng 12.
Cấn Trai trước hết là một thi sĩ đi nhiều, quan sát k, cm nhn tnhiên
nhng vẻ đẹp tinh tế, đầy nhân tính.
Bìa sách Gia Định Tam Gia
* Đa tâm sự
Trong “Gia Định tam thp cảnh”, Chỉ Sơn tiên sinh cảm nhận ba mươi cảnh
đẹp ca xứ Gia Định, mi cnh có sắc thái riêng, đều lp lánh hình bóng ca con
người: Đất đỏ ở Long Đất như có người bừa mây “Chu thổ sừ vân”; bến quê Tân
Triều như chiếc thuyn lnm ngang, lòng khách tha thiết gửi vào nước sông trong
“Tân Triều đãi độ”; Ông Tiều HNai gió thi tung mái tóc trng phau, tiếng hát
hồn nhiên vang trong núi, hòa điệu tiếng nhp cht cây và tiếng sui chảy “Lộc động
tiều ca”. Trước vẻ đẹp ca sen và cô gái hái sen, tác giả tưởng như có chuyện hn
hò, sợ làm kinh động:
遊女採蓮休亂動
Du nữ thái liên hưu loạn động,
舊盟猶待逐來潮
Cựu minh do đãi trục lai triu.

2 Page 2

▲back to top
Dịch nghĩa
(Các cô gái đến hái sen đừng làm kinh động,
Hẹn cũ còn chờ theo nước triu lên).
Hoặc như, viết vcây bn Nam bộ, bài thơ ví thân cây như lưng cô gái nho
nhỏ, thướt tha yếu đuối, vn nhlàn gió nâng niu bờ sông đất Vit, hoa ntng
chùm đỏ ối, cành quhàng chuỗi xanh rì, ban đêm đom đóm lập lòe như cây lửa
“Thủy liễu”… Không yêu quý thiên nhiên thì không cảm nhn tinh tế đến vy.
Trịnh Hoài Đức là người con chí hiếu, luôn biết ơn mẹ, luôn nghĩ về m. Khi
chun bị đi sứ xa mlâu ngày, quan Chánh sứ trăn trở vi trái tim thơ:
Dịch nghĩa
Lìa hiệp tang thương kể my hi
Ân tình ai cũng khéo phanh phui
Trăng lòa ải bc nhàn chinh bóng
Thu qunh tri nam quạ đút mồi
Ngay thảo tưởng rồi sa nước mt
Công danh nghĩ lại đổ mhôi
Quân thân tuy cách lòng đâu cách
Trọn đạo con là trọn đạo tôi.
Trịnh Hoài Đức, tình bn thm thiết, thy chung chiếm vtrí trang trng
trong thơ. Rất nhiều bài thơ với nhiu cung bc cm xúc dành cho những người bn
thân thiết ly chữ Sơn làm nhân hiệu như Nhữ Sơn Ngô Nhân Tĩnh, Chỉ Sơn Lê
Quang Định, Hối Sơn Hoàng Ngọc Uẩn. Bài thơ “Khốc Hbộ Thượng thư Mẫn
Chính hầu Lê Quang Định” đau thắt rut gan: Bn thân ở Gia Định đã một na héo
li, Lê khanh nay lại cưỡi sao Vĩ mà đi, cởi áo cừu đã làm lễ nhp quan, vn còn
khóc như mưa phải nâng vt áo lau.
Gp lại người bạn cũ tại mt ngôi chùa Biên Hòa, Trịnh Hoài Đức có thơ
“Tặng Giác Lâm Viên Quang thiền sư” với li lchân tình, m tình bạn, đậm màu
thin; dịch nghĩa:
Nhthuở thái bình xưa
Đồng Nai va thnh m

3 Page 3

▲back to top
Đạo Thích được tôn sùng
Nhà ngoi còn phú quý
Ta làm trẻ dâng hương
Sư là người gigii
Áo tuy chia xanh vàng
Lòng vn chung ý khí
Bn gii xót phong trn
Quỷ đói ngập thế gii
Bọt nước chuyn mt còn
Bèo hoang phn chìm ni
Trải hơn bốn mươi năm
Mà như không mấy đổi
Đồng tây rnh do quanh
Ca núi cht gp li
Ta Hip trn thành này
Sư Hòa thượng ngôi y
Cm tay tựa mơ mòng
Mlòng còn run ry
Chuyện xưa nói làm gì
Đạo ln thảy như vậy
Ltòng kim dbch,
Nguyt thcố hương minh.
90 năm sau khi “Cấn Trai thi tập” được n hành, Nguyn Liên Phong phbiến
bài thơ nêu trên, kèm theo mấy dòng cm tác trong Nam Kphong tục nhơn vật din
ca:
Giác Lâm chùa tổ sơ khai,
Tc kêu Cẩm Đệm lâu dài thnh sung.

4 Page 4

▲back to top
Thuở xưa Hoài Đức Trnh công,
Viên Quang Hòa thượng cũng đồng bạn chơi.
Kẻ Vương người Phật theo đời.
Khi sau hi ngcó li tng ngôn.
Mt bài cổ điệu ngũ ngôn,
Trnh công thbút thuyn môn rõ ràng.
Tâm strung quân ái quc ca Trịnh Hoài Đức rõ nhất trong “Bắc sthi tập”
và “Đi sứ cảm tác”. Ở đó, Trịnh Hoài Đức làm thơ ghi chép gần như là nhật ký cm
xúc vmi s, bàng bạc trong thơ là tấm lòng trung trinh với vua, thương nhớ quê
nhà.
Hành trình đi sứ kéo dài khiến cho Trịnh Hoài Đức thêm lo lắng, lòng trĩu
nặng ơn vua nợ nước. Bài Đông nguyệt do Quảng Đông thủy trình vãng Qung Tây
tỉnh có đoạn được dịch nghĩa:
Ơn vua ơn nước còn mang nặng chưa đền đáp,
Năm tháng xa cách còn dần dà chưa về.
Đẩy ca cao ging gọi lái đò,
Nhổ neo giương buồm gp gấp vượt sông.
Có lúc ông cm thy thẹn lòng vì không lo được vic nhà:
Cscách trln lữa nơi dịch quán,
Người vthuhàn vi li bbnh ở phương trời xa.
Chí trẻ mưu sự kinh luân tế thế ca ta tht lm ln,
Cung tên treo lên thumi sinh, chợt cười đã thành chuyện hão.
Lthhoa triêu
Nghe tiếng sáo như tiếng thi bùng ngn la trong lòng:
Tha hương làm khách mãi,
Chiết liễu điệu xui lòng.
Chín khúc sông su nh,
Quanh thành sông lượn vòng.

5 Page 5

▲back to top
Tương hành tạp vịnh văn địch
Tương tự, khi lên lu ở Trường Sa, trông nhng cánh bum, dừng chén rượu,
nhớ mùa thu quê hương “Đăng Trường Sa Cng Cực lâu lưu đề”. Khi nằm bnh,
gic mộng mơ màng theo tiếng chuông bay về cõi quê hương; trời thu như gió mát
để đưa tiễn đưa về quê sớm “Khai Phong phủ hành quán lp thu bệnh trung ngâm”.
* Ttình, ttrào
Trịnh Hoài Đức ít nói về mình, nhưng có thể tìm thy tính cách ca ông trong
thơ. Bài thơ Cấn Trai đề bích, có ý nghĩa tự sự, như khắc ha một con người kết tinh
ca Trời Đất, thừa hưởng tinh hoa của con người, sng có nguyên tc vì xã hi và
quc gia, biết kim giữ, dù đã thành danh nhưng luôn vươn tới cái mi, uống rượu
nhiu, khluyện làm thơ, có tâm hồn nhân văn “Không bẻ hoa trước sân, dành để
thưởng xuân tự nhiên”:
Phiên âm
Thiên địa chung nhân tú,
Nhân thừa thiên địa chân.
Tửu đa giới đãng tính,
Thi khcnh lao thn.
Lý du cương duy lập,
Danh thành đức nghip tân.
Đình hoa khai bt chiết,
Lưu thưởng tu nhiên xuân.
Dịch nghĩa
Trời đất chung đúc khí linh tú nên người,
Người thừa hưởng cái chân ca trời đất.
Uống rượu nhiu, tự răn về tính khoáng đãng,
Khổ công làm thơ, cảnh giác vchuyn mt mi tinh thn.
Lý đầy đủ, nguyên tắc để ràng buc xã hi và quốc gia được lp,
Đã thành danh, đạo đức, snghip phi có cái mi.

6 Page 6

▲back to top
Hoa trước sân nkhông b,
Dành để thưởng cái xuân tnhiên.
Bài thơ Tự trào tkim, tự đùa vui với mình, thhin tâm tình lc quan, hài
lòng vi cuc sng, ngo với đàn thơ, vui với nước đẹp, núi l:
Phiên âm
Thiên nhược ư dư hống tiếu đoan,
Sinh phùng lon thế cưỡng danh an.
Nhân nhưng mang tuế thâu nhàn nht,
Tàm quý vi tài bác ho quan.
Nê tuý nht bôi kiêu tu bá,
Nha đồ ngũ vận ngạo thi đàn.
Cận lai kiêu hãnh càn khôn lượng,
Thuỷ tú sơn kỳ túc ngã hoan.
Dịch nghĩa
Trời dường như trêu cợt ta,
Sinh gặp đời lon mà vẫn gượng givẹn được danh.
Bi vẫn năm bận rn trm rút ly ngày nhàn,
Thn mình tài nhmà lại được chc quan kha khá.
Say nhà một chén kiêu căng với tu bá,
Bôi lem nhem năm vận ngo với đàn thơ.
Gần đây đánh cuộc may rủi đo lường trời đất,
Nước đẹp núi lạ đủ cho ta vui.
Mun hiu thêm vTrịnh Hoài Đức, có thtìm hiu hai cặp đối di tích m
ông. Hai cặp đối y hoc làm theo di nguyn ca Trịnh Hoài Đức, hoc ca bn tâm
giao, thu hiểu tâm đức của người quá c.
Cặp đối 1, mi vế 7 chthhin triết lý đượm màu thin về con người vi t
nhiên:
山水有情成眷属

7 Page 7

▲back to top
Sơn thủy hu tình thành quyến thuc
(Núi sông hữu tình thành người thân trong nhà)
乹坤無域是家
Càn khôn vô vc thị gia hương
(Trời, Đất không có ranh gii chính là quê nhà).
Cặp đối 2 mi vế 5 chvề đạo lý ng xử ở đời mang tính giáo hun:
各人正走馬
Các nhân chính tu mã
(Người sng ở đời chính là đang cưỡi nga)
舉世堅行舟
Cthế kiên hành chu
(Vic xthế ở đời như là kiên trì chèo thuyền)
Mun hiu thâm ý cặp đối 5 chnày, phi thuc li giáo hun ca cnhân,
cũng qua câu đối:
Tâm như bình nguyên mc mã, dphóng nan thu
Học như nghịch thy hành chu, bt tiến tt thoái
(Lòng người như cưỡi ngựa trên bình nguyên, phóng đi thì dễ, ghìm gimi
khó.
Vic học như chèo thuyền ngược nước, không tiến tới được, t stt lùi).
Hai cặp đối y có ý nghĩa triết lý nhân sinh như là bài học tcuộc đời ca
Trịnh Hoài Đức để lại cho đời. Có thly chữ Đức để diễn đạt vTrịnh Hoài Đức:
Công đức, tâm đức và nhơn đức.