Đoàn sứ đi trên hai tàu chiến Bạch Yến và Huyền Hạc, xuất phát từ cửa biển
Thuận An ngày 12-6; đến ngày 19-6 qua địa phận phủ Tam Châu thuộc vùng biển
đất Việt, gặp bão lớn, mặt biển điên đảo, tàu bị gió đánh quay cuồng, sóng cao như
núi, cực kỳ dữ dội; tàu bị xô nghiêng ngả như chiếc lá trong chỗ nước xoáy, tình
trạng rất nguy ngập.
Chánh sứ Trịnh Hoài Đức ở tàu Bạch Yến vượt được cơn bão dạt vào bãi cát
Thượng Xuyên. Hai Phó sứ ở tàu Huyền Hạc giữa biển khơi, chống đỡ với gió dữ,
cột buồm gãy, tàu bị dạt vào vùng Đại Áo thuộc vùng biển nước Việt.
Đến ngày 1-7, bão yên, hai thuyền mới hợp nhau, cùng đến Hổ Môn quan
thuộc Việt Đông (nay thuộc tỉnh Quảng Tây); trình báo với quan Tổng đốc Lưỡng
Quảng của Thanh triều là Giác La Cát Khanh - Thượng thư Bộ Binh, tước Thái tử
Thái Bảo, Hiệp biện đại học sĩ. Đoàn sứ nghỉ ở dịch quán, chờ hồi báo của triều đình.
Mãi đến tháng 10 mới được tiếp chỉ của Thanh triều chuẩn cho đoàn sứ bộ lên
đường tiến kinh. Lúc này, đoàn sứ bộ
nhận được tin vua Gia Long thu hồi
toàn cõi đất nước, tiếp đó, vua cử đoàn
sứ bộ thứ hai do Mẫn Chính hầu Lê
Quang Định (Thượng thư Bộ Binh)
làm Chánh sứ, cùng hai phó sứ là
Nguyễn Địch Cát, tước Quì Giang hầu,
Học sĩ điện Cần Chính và Lê Chính Lộ,
tước Quýnh Giám hầu, Thiêm sự Bộ
Lễ sang Thanh triều hợp cùng đoàn sứ
bộ thứ nhất dâng biểu thỉnh phong.
Đoàn sứ của Trịnh Hoài Đức
nhận được trát của quan Đốc phủ
Lưỡng Việt đề nghị lưu lại tỉnh Quế để
Hoàn thành sứ mệnh, đoàn sứ thần
về nước, qua ải Nam quan; mùng 1 Tết
Giáp Tý (1804) về đến thành Thăng
Long, làm lễ triều yết, lưu lại để dự đại
lễ nhận sách phong. Vua Gia Long giao
Trịnh Hoài Đức làm thị giá (theo hầu
vua), Tĩnh Viễn hầu Ngô Nhân Tĩnh tiếp
sứ Tề Bố Sâm - Bố chính tỉnh Quảng Tây
sang làm lễ sách phong; do cả Trịnh
Hoài Đức và Ngô Nhân Tĩnh đều thông
thạo văn hóa Hoa nên việc giao tiếp,
khoãn đãi chu toàn, lễ sách phong được
tổ chức trang trọng, giữ gìn quốc thể.
chờ sứ bộ thứ hai đến rồi cùng tiến
kinh. Quan Đốc phủ Lưỡng Việt lo
ngại vì trong tờ biểu thỉnh phong gửi đến có nội dung xin lấy quốc hiệu là Nam Việt.
Ấy là điều cấm kỵ của Thanh triều khi nhắc đến tên một nước Nam Việt xưa được
xem là “phản loạn”.
Quả nhiên, không lâu sau, Quan đại thần Quân cơ của Thanh triều có bản văn
quở trách, lệnh cho quan Tuần phủ Quảng Tây là Tôn Ngọc Đình báo với triều đình
Gia Long phải gửi lại tờ biểu đổi theo quốc hiệu cũ là An Nam.