điển về địa phương Nam bộ, hiện đã có nhiều bản dịch; những người nghiên cứu
lịch sử văn hóa Nam bộ đều có căn cứ từ đấy với lòng tin phục về tài năng, tâm huyết
và phương pháp khoa học của học giả Trịnh Hoài Đức.
Thời gian ở phủ Tân Bình với cha, Trịnh Hoài Đức học hành trong vòng tay
mẹ và chỉ dẫn của thầy giáo làng dạy ấu học trong vùng.
Đến năm lên mười tuổi, Trịnh Hoài Đức mồ côi cha, theo mẹ và anh chị về
chỗ ở cũ tại xã Thanh Hà để phụng dưỡng bà nội. Nhiều tài liệu có khác nhau sau sự
cố này. Lê Quang Trường cho rằng Trịnh Hoài Đức theo mẹ về lại Biên Hòa, sống
đời dân dã. Từ năm 1776, quân Tây Sơn đánh chiếm Trấn Biên, mẹ Trịnh Hoài Đức
lại đưa cả nhà đến trấn Phiên An, lưu ngụ tại huyện Tân Long, sống nhờ nghề canh
cửi của người mẹ quả phụ. Dù nghèo khó, kiếm sống vất vả trong loạn lạc, mẹ Trịnh
Hoài Đức vẫn luôn nghiêm nghị, khuyên dạy và dồn sức cho Trịnh Hoài Đức theo
thầy học tập.
Trong thôn xóm, trẻ thiếu thầy dạy, phần lớn chỉ biết tự học, tự giảng. Trịnh
Hoài Đức cùng người bạn cùng cảnh ngộ lớn hơn 3 tuổi là Ngô Nhân Tĩnh tìm đến
thọ học thầy Xử sĩ Võ Trường Toản; cùng học còn có Lê Quang Định, Ngô Tùng
Châu, sau đều trở thành công thần triều Nguyễn Gia Long. Khi quân Tây Sơn tiến
Gia Định lần nữa (khoảng năm 1783), Trịnh Hoài Đức cùng gia đình chạy loạn, có
lúc đến Cao Miên, có lúc về Mỗi Suy (Bà Rịa).
Như vậy, từ thơ ấu đến tuổi ba mươi ba “tam thập nhi lập”, cuộc đời của Trịnh
Hoài Đức luôn trong bối cảnh gia đình “gánh mẹ” neo đơn, chạy loạn, vượt khó học
hành.
Công thần đầu triều
Đến năm 1788, khi Nguyễn Ánh thu phục Gia Định, dựng phủ Soái, mở khoa
thi, chiêu mộ nhân tài thì Trịnh Hoài Đức ứng thí, được tuyển dụng. Cuộc đời vinh
hiển mở ra từ đây.
Trịnh Hoài Đức bắt đầu công vụ bằng chức vụ Hàn Lâm chế cáo ngay khi
trúng tuyển; sau đó được bổ làm Tri huyện Tân Bình (năm 1789), rồi được kiêm
Điền Tuấn coi việc khai khẩn đất Gia Định; nhậm chức Đông cung Thị giảng (năm
1793); Ký lục dinh Trấn Dinh, Hộ bộ Hữu tham tri (năm 1794), Tiếp vận quân lương
(năm 1801); Thượng thư Bộ Hộ, Chánh sứ sang Đại Thanh (năm 1802); hai lần Hiệp
trấn Gia Định thành phụ tá Tổng trấn Nguyễn Văn Nhân (các năm 1808, 1816);
Thượng thư Bộ Lễ kiêm quản Khâm thiên giám (năm 1812); hai lần Thượng thư Bộ
Lại (năm 1811, và từ năm 1814-1820); Quyền Tổng trấn Gia Định thành (năm 1820);