lâu ngày trở về đất mẹ, chúng tôi được hòa mình trong ánh mắt, nụ cười đôn hậu và
những cái bắt tay thật chặt của bà con nơi đây khiến ai cũng xúc động. Không cần
hướng dẫn viên của Ban Quản lý Khu di tích quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo,
chính bà con đưa chúng tôi tham quan và giới thiệu tỉ mỉ về từng địa điểm mà họ dường
như đã thuộc lòng: Đây là khu lán nghỉ-mô phỏng lán trại cũ của Đội gồm hai dãy làm
theo kiểu nhà của người miền xuôi. Phía đối diện là bếp ăn của Đội. Từ khu lán nghỉ-
bếp ăn, theo con đường nhỏ xuống khoảng 50m, có một mỏ nước chảy liên tục. Nơi
đây vẫn còn những cây sấu cổ thụ làm dấu, mỏ nước được Đội lấy nước dùng cho sinh
hoạt hằng ngày khi mới thành lập. Tiếp đến, vượt khoảng 300 bậc thang là lên tới đỉnh
Slam Cao-đỉnh cao nhất của núi Dền Sinh, nơi đồng chí Võ Nguyên Giáp và Ban chỉ
huy Đội đặt trạm quan sát. Từ đây có thể quan sát các hướng: Phía Tây Bắc là đồn Phai
Khắt, làng Phai Khắt và núi Thẳm Khẩu; phía Đông Bắc là đồn Nà Ngần và xa hơn là
trục Đường 3B, nơi có một số đồn địch án ngữ. Đặc biệt là địa điểm diễn ra lễ thành
lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, hiện đã được đầu tư phục dựng trên
khu đất rộng, bằng phẳng, có lát gạch và láng xi măng, với một nhà bia trung tâm 2
tầng 8 mái. Trên các mặt bia có khắc toàn văn Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên
truyền giải phóng quân của lãnh tụ Hồ Chí Minh; danh sách 34 chiến sĩ và 10 lời thề
danh dự do đồng chí Võ Nguyên Giáp đọc trong lễ tuyên thệ.
Là một người con của quê hương Trùng Khánh, Cao Bằng, hiện sinh sống cách
khu di tích 27km, Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Hoàng Văn Thượng, nguyên Chỉ
huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Cao Bằng không bỏ qua một điểm di tích nào. Ông tự hào
nói: “Tôi sinh năm 1948, khi Đội đã ra đời 4 năm với nhiều trận đánh gây tiếng vang
khắp vùng. Nghe các cụ truyền tai nhau về Bộ đội Cụ Hồ, tôi háo hức muốn đi theo và
từng nhiều lần trốn nhà tìm đến rừng Trần Hưng Đạo. Dù biết lúc đó Đội đã lớn mạnh
và đi chiến đấu ở chỗ khác nhưng tôi vẫn nuôi hy vọng. Sau này trưởng thành, tôi chính
thức nhập ngũ, là bộ đội đặc công tham gia kháng chiến chống Mỹ, cứu nước rồi làm
nhiệm vụ của người lính xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cho đến khi nghỉ hưu năm 2007.
Trở về cuộc sống đời thường gần 20 năm nay nhưng những lời thề của người quân
nhân cách mạng, tôi chưa bao giờ quên”.
Tiếp lời đồng đội, Trung tướng Phùng Khắc Đăng, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng
cục Chính trị QĐND Việt Nam khẳng định: “Lời thề bao hàm nhiều mặt trong phẩm
chất của người chiến sĩ, nhưng hồn cốt của nó là lòng trung thành tuyệt đối với Tổ
quốc, với Đảng, với nhân dân. Đó là vấn đề có tính nguyên tắc của một đội quân cách
mạng mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam giáo dục, rèn luyện.
80 năm qua, tuy có thay đổi một số điểm về ngôn từ cho phù hợp nhưng cốt lõi của 10
lời thề hầu như không thay đổi. Nó nhắc nhở mỗi người lính trong mọi hành động đều
phải nêu cao quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Đồng thời phải thường xuyên nuôi dưỡng
phẩm chất cách mạng, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành lẽ sống cao cả
của Bộ đội Cụ Hồ”.
Tiến bước dưới Quân kỳ Quyết thắng