lãnh đạo của Đảng trong các đội tự vệ, các nguyên tắc xây dựng lực lượng cả về
chính trị, tổ chức, biên chế, trang bị, huấn luyện, mối quan hệ giữa chỉ huy và lãnh
đạo, mối quan hệ giữa các đội tự vệ với quần chúng nhân dân.
Sau Đại hội lần thứ nhất của Đảng, tình hình trên thế giới có những chuyển
biến sâu sắc, phong trào chống chiến tranh phát xít lan rộng khắp nơi. Bên Pháp,
Mặt trận Bình dân lên nắm quyền. Trước tình hình đó, Đảng xác định nhiệm vụ
trước mắt là chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống phản động thuộc địa
và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Đảng lập mặt trận nhân dân phản
đế rộng rãi, bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tin
nguỡng tôn giáo khác nhau, các dân tộc để đấu tranh đòi những quyền lợi hàng
ngày, chống chế độ thuộc địa vô nhân đạo, để “dự bị điều kiện cho cuộc vận động
dân tộc giải phóng được phát triển”. Đảng cũng nhắc nhở toàn thể đảng viên: “Ta
chưa ở tình thế trực tiếp cách mạng, khi lãnh đạo quần chúng đấu tranh, phải tránh
những hành động kịch liệt, bạo động, có thể khiêu khích quân thù khủng bố vô ích,
phải biết giữ gìn lực lượng quần chúng”.
Ngày 1-8-1939, Đức quốc xã tiến công Ba Lan, mở đầu cuộc chiến tranh thế
giới lần thứ hai. Tháng 11-1939, Trung ương Đảng họp hội nghị ở Bà Điểm, Hóc
Môn, Gia Định (hội nghị Trung ương 6) quyết định điều chỉnh sự chỉ đạo chiến
lược cách mạng ở Đông Dương cho phù hợp với tình hình mới. Hội nghị xác định:
“Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác
hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da
trắng hay da vàng, để tranh lấy giải phóng dân tộc” và chủ trương kiên quyết tập
trung mũi nhọn các cuộc đấu tranh của quần chúng vào việc chống đế quốc và tay
sai, chuẩn bị tiến tới làm bạo động cách mạng để giải phóng dân tộc. Tại hội nghị
này, đi đôi với quyết định lập Quốc dân cách mạng quân, Trung ương chủ trương
phát triển tự vệ để bảo vệ quần chúng cách mạng với yêu cầu: “Đội tự vệ phải to
rộng, đủ dũng cảm và điềm tính khôn khéo và hy sinh bảo vệ quần chúng”. Sau hội
nghị Trung ương 6, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ và cuộc
binh biến ở Đô Lương nổ ra. Từ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, đội du kích Bắc Sơn ra
đời (13-10-1940), về sau phát triển thành các đội Cứu quốc quân.
Một sự kiện quan trọng đánh dấu sự phát triển của cách mạng Việt Nam và
sự phát triển của các lực lượng vũ trang dưới sự lãnh đạo của Đảng là tháng 1-
1941. Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Trước
khi về nước, Người đã tiến hành đào tạo cán bộ các đoàn thể và cán bộ quân sự, tổ
chức xây dựng thí điểm các tổ chức cứu quốc ở Cao Bằng. Tháng 5-1941, dưới sự