Dong Nai 50 nam trang su hao hung tu hao vung buoc

Dong Nai 50 nam trang su hao hung tu hao vung buoc

1 Pages 1-10

▲back to top

1.1 Page 1

▲back to top
SỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH ĐỒNG NAI
THƯ VIỆN TNH
ÑOÀNG NAI 50 NAÊM TRANG SÖÛ HAØO HUØNG
TÖÏ HAØO VÖÕNG BÖÔÙC
Đồng Nai, tháng 4 năm 2025

1.2 Page 2

▲back to top
LỜI NÓI ĐẦU
Đầu năm 1965, đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn của chế độ Sài Gòn, đế quốc Mỹ
quyết định đưa quân đội vào tham chiến ở chiến trường miền Nam, thay đổi chiến lược “chiến
tranh đặc biệt” bằng “chiến tranh cục bộ” nhằm cứu nguy cho quân ngụy, tìm diệt các lực
lượng vũ trang cách mạng miền Nam. Đứng trước tình thế mới, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã lãnh đạo quân và dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Một là,
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của
cách mạng cả nước. Hai là, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước
nhà.
Với ý chí và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ không gì lay chuyển nổi, quân dân cả nước
nói chung và quân dân Đồng Nai nói riêng đã không quản ngại bất kỳ khó khăn gian khổ,
chiến đấu đến cùng chống quân xâm lược mạnh hơn ta gấp bội. Nhiều trận đánh lớn của quân
và dân ta đã làm cho kẻ thù phải khiếp vía kinh hồn… Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; Miền Đông gian lao mà anh
dũng trong đó có Đồng Nai đã góp phần tạo nên trang sử hào hùng chói lọi trên con đường
dựng nước, giữ nước của dân tộc, kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự
do, thống nhất đất nước; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và
mới; đánh dấu bước ngoặt quyết định trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước ta bước vào kỷ
nguyên độc lập tự do.
Nhân Kỷ niệm 50 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 –
30/4/2025), Thư viện tỉnh Đồng Nai phát hành Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm
trang sử hào hùng, tự hào vững bước”.
Nội dung thư mục gồm:
Phần I: Đại thắng mùa Xuân năm 1975 - Sức mạnh Việt Nam, tầm vóc thời đại.
Phần II: Đồng Nai - 50 năm trang sử hào hùng.
Phần III: Đồng Nai tự hào vững bước.
Bản thư mục là tài liệu tham khảo hữu ích đối với Quý bạn đọc. Trong quá trình biên
soạn không tránh khỏi thiếu sót rất mong bạn đọc chia sẻ, đóng góp ý kiến.
THƯ VIỆN TỈNH ĐỒNG NAI

1.3 Page 3

▲back to top
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Trang
NỘI DUNG
PHẦN I: ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN NĂM 1975 - SỨC MẠNH VIỆT
NAM, TẦM VÓC THỜI ĐẠI……………………………………………….. 1
1. Chỉ đạo chiến lược của Bộ Chính trị mùa Xuân 1975………………………….. 1
2. Chiến dịch Hồ Chí Minh (26/4 – 30/4/1975) giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất đất nước……………………………………………………………. 6
3. Chiến dịch mang tên Hồ Chí Minh…………………………………………..... 8
4. Chiến dịch Hồ Chí Minh trận quyết chiến chiến lược giành toàn thắng……....... 11
5. 5 cánh quân chủ lực quyết hạ 5 mục tiêu chủ yếu………………………………. 18
6. Đại thắng mùa Xuân 1975 - Sức mạnh của niềm tin chiến thắng và ý chí thống
nhất Tổ quốc…………………………………………………………………… 19
7. Đại thắng mùa Xuân 1975 - Bài học về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng………. 25
8. Chiến lược quân sự đúng đắn của Đảng - hạt nhân cốt lõi trong đại thắng mùa
Xuân 1975……………………………………………………………………... 31
9. Thắng lợi trên hướng Đông Nam trong Chiến dịch Hồ Chí Minh - Bài học đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay………………………….... 33
10. Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của đường lối
và nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của
Đảng…………………………………………………………………………… 40
11. Tầm vóc lịch sử của Đại thắng mùa Xuân 1975………………………………. 45
12. Nghệ thuật tạo sức mạnh về lực lượng và thế trận trong Chiến dịch Hồ Chí
Minh…………………………………………………………………………… 48
PHẦN II: ĐỒNG NAI – 50 NĂM TRANG SỬ HÀO HÙNG………………. 52
13. Chiến dịch lộ 3 - Mở rộng địa bàn Đông Bắc Xuân Lộc………………………. 52
14. Bối cảnh tháng 3……………………………………………………………….. 54
15. Chiến dịch Xuân Lộc - Long Khánh………………………………………….. 56
16. Đường về Biên Hòa……………………………………………………………. 59
17. Sư đoàn 6 ra quân đánh thắng trận đầu………………………………………… 62
18. Đập tan cánh cửa thép…………………………………………………………. 65
19. Lớn mạnh trong vòng kiềm kẹp………………………………………………... 68
20. Ngày 20-3-1975, giải phóng Định Quán - Đường 20…………………………... 70
21. Nhớ ngày giải phóng Biên Hòa………………………………………………... 71
22. Người nữ anh hùng nơi “Cánh cửa thép” năm xưa……………………………... 74
23. Trận đánh sau cùng của những người lính đặc công…………………………… 77
24. Khóa chặt sân bay Biên Hòa…………………………………………………… 78
25. Kỷ niệm Biên Hòa tháng 4 năm 1975………………………………………….. 79

1.4 Page 4

▲back to top
26. Quân dân Biên Hòa bám trụ kiên cường chiến thắng vẻ vang………………….. 83
27. Tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng toàn tỉnh………………………. 86
89
PHẦN III: ĐỒNG NAI TỰ HÀO VỮNG BƯỚC…………………………...
28. Tỉnh Đồng Nai đẩy mạnh phát triển kinh tế gắn với củng cố, tăng cường quốc 89
phòng, an ninh………………………………………………………………….
29. Kinh tế Việt Nam và tỉnh Đồng Nai thời kỳ đổi mới…………………………… 91
30. 50 năm thống nhất: Vùng đất anh hùng góp phần làm nên Chiến thắng Xuân 95
Lộc……………………………………………………………………………..
31. Hành trình 50 năm đổi thay và vươn mình……………………………………... 98
32. 8 thành tựu của Đồng Nai……………………………………………………… 101
33. Đồng Nai tích cực hiện thực hóa khát vọng nâng cao đời sống nhân dân…….. 103
34. Những dấu ấn nổi bật trong phát triển kinh tế…………………………………. 106
35. Đồng Nai: Gần 50 năm nỗ lực vượt bậc………………………………………... 109
BNG TRA TÊN TÁC GI
BNG TRA TÊN TÀI LIU

1.5 Page 5

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
PHẦN I
ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN NĂM 1975
SỨC MẠNH VIỆT NAM, TẦM VÓC THỜI ĐẠI
1. Chỉ đạo chiến lược của Bộ Chính trị mùa Xuân 1975 / TTXVN //
https://dantri.com.vn. 2020. Ngày 19 tháng 4.
(Dân trí) - Đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta hoàn toàn giải phóng miền
Nam, giành thắng lợi trọn vẹn. 20 năm nhân dân cả nước chiến đấu mới tạo được thời cơ
này....
Thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954 - 1975) được tạo nên từ nhiều nhân tố chủ quan và khách quan, nhưng nhân tố
bao trùm có vai trò quyết định nhất chính là sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam với
đường lối cách mạng đúng đắn, độc lập, tự chủ và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh tài tình,
sáng tạo. Nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước (30/4/1975 - 30/4/2020), Thông tấn xã Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết: “Chỉ
đạo chiến lược của Bộ Chính trị
trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
mùa Xuân 1975” của Tiến sĩ Trần
Hữu Huy, Hội viên Hội khoa học
lịch sử Việt Nam.
Hạ quyết tâm chiến lược kịp
thời, chính xác
Bước vào nửa cuối năm 1974,
cục diện chiến tranh có sự chuyển
biến mạnh mẽ theo hướng ngày càng
có lợi cho cách mạng. Trước tình
hình đó, Đảng Lao động Việt Nam
triệu tập Hội nghị Bộ Chính trị (họp
từ ngày 30/9 - 7/10/1974) để bàn kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Hội nghị đã phân tích tình hình và rút ra những nhận định rất quan trọng: Về tương
quan so sánh lực lượng trên chiến trường, cách mạng đang ở thế thắng, thế chủ động và tiến
lên; trái lại địch chịu nhiều thất bại liên tiếp nên đang ở thế thua, thế bị động và xuống dốc.
Mỹ đã rút ra, đang gặp nhiều khó khăn, nên không có khả năng quay trở lại (can thiệp trực
tiếp bằng quân sự); dù cho Mỹ có can thiệp trở lại bằng quân sự trong chừng mực nào đó thì
cũng không xoay chuyển được tình thế, không cứu vãn được sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn.
Do có sự thỏa hiệp với đế quốc Mỹ, một số nước lớn có ý đồ cản trở thắng lợi của cách
mạng Việt Nam, chia rẽ tình đoàn kết nhân dân ba nước Đông Dương nhằm phục vụ cho
mưu đồ xâm lược bành trướng, nhưng thời điểm này chưa đủ sức, chưa sẵn sàng.
1

1.6 Page 6

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Từ những nhận định trên, Bộ Chính trị đi đến khẳng định: Đây là thời cơ thuận lợi
nhất để nhân dân ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn. Hai mươi
năm nhân dân cả nước chiến đấu mới tạo được thời cơ này. Ngoài thời cơ này, không còn
thời cơ nào khác. Nếu để chậm mươi, mười lăm năm nữa, địch gượng dậy được, các thế lực
xâm lược bành trướng mạnh lên, tình hình sẽ phức tạp vô cùng.
Trên cơ sở nhận diện đúng thời cơ, Bộ Chính trị đề ra quyết tâm: “Động viên những
nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công
và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và
làm tan rã toàn bộ quân ngụy (...), đánh đổ ngụy quyền ở trung ương và các cấp, giành toàn
bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam” (trích Biên bản kết luận
Hội nghị).
Về mặt thời gian, Bộ Chính trị cơ bản thống nhất đề án xây dựng kế hoạch chiến
lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976, chia làm hai bước: Bước 1 (1975),
tranh thủ thời cơ, bất ngờ mở cuộc tiến công lớn và rộng khắp. Bước 2 (1976), thực hiện
tổng công kích, tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành toàn thắng.
Tuy nhiên, tập thể Bộ Chính trị nhận thấy: quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền
Nam lần này có ý nghĩa lịch sử rất to lớn, vừa quyết định đến toàn bộ sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của dân tộc, nhưng đồng thời mang tính chất thời đại sâu sắc. Do đó,
cần phải có thêm thời gian đánh giá tình hình kỹ hơn, thảo luận sâu sắc hơn, xây dựng kế
hoạch đầy đủ hơn, để đi đến hạ quyết tâm chiến lược cuối cùng có cơ sở khoa học, bảo đảm
chắc thắng.
Sau một thời gian tiếp tục theo dõi tình hình quốc tế và khu vực có liên quan, đồng
thời nắm bắt cụ thể diễn biến từ chiến trường, có thêm cơ sở thực tiễn, Đảng triệu tập Hội
nghị Bộ Chính trị mở rộng (họp từ ngày 18/12/1974 - 8/1/1975), trong đó có nhiều đồng chí
lãnh đạo, phụ trách các chiến trường từ miền Nam tham dự.
Hội nghị cơ bản nhất trí với phương hướng chiến lược đã được Hội nghị Bộ Chính trị
lần trước thông qua; đồng thời đi sâu phân tích, làm rõ thêm so sánh lực lượng giữa ta và
địch; đánh giá khả năng can thiệp quân sự của Mỹ; trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng
quy mô lớn của chủ lực ta; về khả năng giành thắng lợi nhanh gọn, triệt để...
Giữa lúc Hội nghị đang diễn ra thì nhận được tin Quân giải phóng miền Nam đã
giành thắng lợi vang dội trong chiến dịch Đường 14 - Phước Long (13/12/1974 - 6/1/1975).
Ta loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch; phá hủy, thu giữ nhiều loại vũ khí, đạn
dược (trong đó có gần 10.000 viên đạn pháo); giải phóng toàn tỉnh Phước Long với 50.000
dân, tạo thêm bàn đạp uy hiếp từ phía bắc Sài Gòn. Cả Mỹ và chính quyền Sài Gòn đều
phản ứng yếu ớt rồi chấp nhận thất bại.
Chiến thắng Phước Long có giá trị như “đòn trinh sát chiến lược”, cho thấy rõ hơn
khả năng Mỹ sẽ không can thiệp trở lại bằng quân sự; đồng thời bộc lộ trình độ tác chiến
yếu kém của chủ lực quân đội Sài Gòn, ta có thể giành thắng lợi sớm hơn.
Dựa trên những cơ sở thực tiễn mới nhất, đặc biệt là chiến thắng Phước Long, Hội
nghị Bộ Chính trị mở rộng khẳng định: “Thời cơ chiến lược của ta đang phát triển nhanh
chóng đến độ chín muồi”, từ đó, chính thức hạ quyết tâm chiến lược: “Động viên nỗ lực lớn
2

1.7 Page 7

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, trong thời gian hai năm 1975 - 1976
đẩy mạnh đấu tranh quân sự, chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh
chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta;
tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành mọi mặt công tác chuẩn bị, tạo điều kiện chín muồi,
tiến hành tổng công kích tổng khởi nghĩa tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy
quyền từ trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền
Nam” (trích Biên bản kết luận Hội nghị).
Tuy đề ra kế hoạch hai năm 1975 - 1976, Hội nghị lần này cũng chỉ rõ: Nếu thời cơ
đến sớm hơn, vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm
1975. Phải tranh thủ đánh thắng nhanh để giảm bớt sự thiệt hại về người và của cho nhân
dân, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh. Bộ Chính trị thông qua kế hoạch tác chiến chiến
lược do Bộ Tổng tham mưu soạn thảo (trải qua 8 lần xin ý kiến chỉnh sửa), thống nhất chọn
Nam Tây Nguyên là hướng tiến công chủ yếu, với mục tiêu chính là thị xã Buôn Ma Thuột.
Đây là quyết tâm chiến lược cuối cùng giải phóng hoàn toàn miền Nam của tập thể
Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, là kết quả của sự chuẩn bị chiến lược hết sức chủ
động, dũng cảm, sáng tạo, công phu kiên trì, bền bỉ trên tất cả các mặt (chính trị, quân sự,
ngoại giao, tiềm lực hậu phương và tiền tuyến, thế trận và lòng người...) trong thời gian dài,
thể hiện trí tuệ, bản lĩnh Việt Nam trong “cuộc đụng đầu lịch sử” với đế quốc Mỹ và lực
lượng phản động, tay sai.
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị đề ra, nhân dân cả nước ra sức
chuẩn bị mọi mặt với khí thế hào hùng chưa từng có, hướng tới trận quyết chiến chiến lược
cuối cùng. Trên khắp chiến trường, đầu năm 1975, quân dân ta đẩy mạnh hoạt động, đánh
địch khắp nơi theo quy mô vừa và nhỏ là chính, vừa làm cho địch tiếp tục suy yếu và bị
động, vừa thực hành nghi binh che giấu ý đồ, mục tiêu tiến công chiến lược của ta.
Trong lúc đó, Mỹ và chính quyền Sài Gòn vẫn chủ quan, đánh giá: sang năm 1975,
phía Quân giải phóng sẽ đánh với quy mô mạnh hơn năm 1974, nhưng không bằng năm
1968 và năm 1972. Quân giải phóng cũng chưa có khả năng đánh chiếm thị xã, thành phố
lớn, và nếu có chiếm cũng không giữ được.
Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu còn nhận định: hướng tiến công chủ yếu của Quân
giải phóng là miền Đông Nam Bộ, do đó, bên cạnh việc tập trung lực lượng mạnh phòng thủ
ở Quân khu 1 (tiếp giáp miền Bắc), địch huy động lực lượng về củng cố phòng thủ ở Quân
khu 3 (miền Đông Nam Bộ). Đối với chiến trường Tây Nguyên, Bộ Tổng tham mưu quân
đội Sài Gòn phán đoán Quân giải phóng sẽ đánh mạnh ở hướng Bắc Tây Nguyên, nên dồn
lực lượng phòng thủ tại đây; trong khi ở hướng Nam Tây Nguyên (có thị xã Buôn Ma
Thuột) lực lượng địch bị căng mỏng, bố trí phòng thủ có nhiều sơ hở. Thực tiễn đã khẳng
định, đó là những nhận định, đánh giá sai lầm chiến lược của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Chỉ đạo kiên quyết, linh hoạt, sáng tạo
Thực hiện kế hoạch tác chiến chiến lược đã đề ra, sau một quá trình chuẩn bị, từ ngày
4/3/1975, quân dân ta bất ngờ mở chiến dịch tiến công Tây Nguyên, đánh chiếm mục tiêu
chủ yếu (Buôn Ma Thuột) làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch trên chiến
trường miền Nam.
3

1.8 Page 8

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Ngày 3/4/1975, chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi. Ta tiêu diệt và làm tan rã
Quân đoàn 2 - Quân khu 2 của chính quyền Sài Gòn, giải phóng Tây Nguyên cùng một số
tỉnh ven biển Trung Trung Bộ, làm thay đổi cơ bản so sánh lực lượng, thế chiến lược giữa ta
và địch, tạo bước ngoặt quyết định, đưa cuộc tiến công chiến lược của ta phát triển thành
tổng tiến công trên toàn miền Nam.
Thắng lợi bước đầu của chiến dịch Tây Nguyên, đặc biệt là trận then chốt giải phóng
thị xã Buôn Ma Thuột (10/3/1975) và thông tin địch rút toàn bộ lực lượng khỏi Tây Nguyên
đã mở ra khả năng thắng lớn của cách mạng. Nhận thấy thời cơ chiến lược đến nhanh hết
sức thuận lợi, ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị họp bàn, bổ sung vào quyết tâm chiến lược:
thực hiện phương án tranh thủ thời cơ, giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong năm
1975. Kế hoạch hai năm được rút xuống còn một năm. Bộ Chính trị nhấn mạnh: Muốn hoàn
thành nhiệm vụ cơ bản đó, nhiệm vụ trước mắt của quân và dân ta là mở đòn tiến công
chiến lược thứ hai nhằm giải phóng Huế - Đà Nẵng và các tỉnh ven biển miền Trung.
Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị đề ra, quân dân ta đẩy mạnh tiến công địch ở
Trị - Thiên, các tỉnh đồng bằng ven biển Khu 5, gây áp lực mạnh buộc địch phải thu dồn lực
lượng về giữ các thành phố lớn là Huế, Đà Nẵng. Tranh thủ thời cơ địch co cụm, các binh
đoàn chủ lực của ta phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang cùng nhân dân địa phương
nhanh chóng mở các đợt tiến công giải phóng nhiều vùng nông thôn rộng lớn; đồng thời tổ
chức các mũi thọc sâu chia cắt địch, chặn đường rút chạy của chúng, hình thành thế bao vây
địch trong thành phố.
Ngày 25/3/1975, trong khi chiến trường đang diễn biến sôi động, bước vào thời điểm
khẩn trương và quyết định, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã họp bàn khẳng định:
“Cuộc tổng tiến công chiến lược của ta đã bắt đầu với chiến dịch Tây Nguyên. Thời cơ
chiến lược mới đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam”, từ
đó đề ra chủ trương: tập trung nhanh nhất binh lực, vật lực giải phóng miền Nam trước mùa
mưa (khoảng giữa tháng 5/1975). Kế hoạch một năm tiếp tục được rút xuống còn 5 tháng.
Bộ Chính trị hạ quyết tâm mở chiến dịch lịch sử có ý nghĩa quyết định với quy mô
lớn nhất: Chiến dịch tổng công kích và nổi dậy giải phóng Sài Gòn (sau được mang tên
Chiến dịch Hồ Chí Minh). Nhưng muốn đi đến đòn quyết chiến chiến lược ấy, Bộ Chính trị
chỉ đạo: dứt điểm giải phóng Thừa Thiên - Huế; đồng thời tiến công Đà Nẵng kịp thời nhất,
nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất và chắc thắng.
Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, tranh thủ địch đang
hoang mang dao động, các cánh quân chủ lực của ta đồng loạt tiến công, chỉ trong thời gian
ngắn đập tan mọi tuyến phòng thủ của địch, giải phóng Huế (26/3/1975), giải phóng Đà
Nẵng (29/3) cùng các tỉnh ven biển miền Trung.
Ta đã tiêu diệt, làm tan rã toàn bộ lực lượng Quân đoàn 1 - Quân khu 1 của địch,
giáng đòn nặng nề vào chính quyền, quân đội Sài Gòn cũng như kế hoạch kéo dài chiến
tranh của Mỹ; mở ra vùng hậu phương chiến lược hoàn chỉnh nối liền với miền Bắc xã hội
chủ nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng dễ dàng cơ động lực lượng, binh khí kỹ
thuật phục vụ cho tác chiến quy mô lớn hơn. Thắng lợi này hợp cùng với thắng lợi Tây
4

1.9 Page 9

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Nguyên đã làm thay đổi căn bản so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo bước phát triển nhảy
vọt về cục diện chiến tranh hoàn toàn có lợi cho cách mạng.
Căn cứ vào những chuyển biến hết sức mau lẹ từ chiến trường, ngày 31/3/1975, Bộ
Chính trị họp bàn, ra quyết định lịch sử: “Nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện
tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn
nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng tư năm nay, không để chậm”. Kế hoạch 5
tháng tiếp tục được rút xuống còn 4 tháng. Bộ Chính trị cũng đề ra phương châm chỉ đạo:
“thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”.
Đến ngày 7/4/1975, phương châm chỉ đạo này đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp
phát lệnh truyền đi khắp các hướng chiến trường. Ngày 14/4/1975, thể theo nguyện vọng
của đồng bào, chiến sĩ cả nước và đề nghị của Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn,
Bộ Chính trị họp bàn, đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn ấy tên là Chiến dịch Hồ Chí
Minh.
Vào những ngày tháng 4/1975, trên mọi miền đất nước, nhân dân ta ra sức chuẩn bị
cho trận quyết chiến lịch sử. Quân ta trên chiến trường ra sức tạo thế, tạo lực. Ngày
9/4/1975, quân ta tiến công Xuân Lộc - tuyến phòng thủ trọng yếu bảo vệ Sài Gòn từ phía
đông của quân đội Sài Gòn. Ngày 16/4, quân ta đập tan tuyến phòng thủ Phan Rang. Ngày
21/4/1975, quân địch ở Xuân Lộc tháo chạy. Trong khi đó, địch bị tổn thất nặng nề về lực
lượng và phương tiện, tinh thần hoàng mang. Mỹ lập cầu hàng không viện trợ khẩn cấp cho
chính quyền, quân đội Sài Gòn nhằm cứu vãn sự sụp đổ hoàn toàn, hi vọng tìm kiếm một
giải pháp qua đàm phán.
Ngày 22/4/1975, Bộ Chính trị họp bàn, phát lệnh: “Thời cơ để mở cuộc tổng tiến
công về quân sự và chính trị vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày để kịp
thời phát động tiến công. Hành động trong lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất để giành
thắng lợi hoàn toàn. Nếu để chậm sẽ không có lợi cả về quân sự và chính trị”.
Ngày 26/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh chính thức bắt đầu. Tất cả các cánh quân
của ta, bao gồm 4 quân đoàn (1, 2, 3, 4) và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) lần lượt đập
tan các tuyến phòng thủ vòng ngoài, đồng thời hình thành các mũi thọc sâu đánh chiếm 5
mục tiêu trọng yếu trong nội đô Sài Gòn.
Trưa ngày 30/4/1975, Quân giải phóng tiến vào Dinh độc lập, bắt sống toàn bộ nội
các chính quyền Sài Gòn, buộc tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng vô
điều kiện. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
Như vậy, trải qua gần hai tháng Tổng tiến công và nổi dậy, quân dân Việt Nam đã
giành thắng lợi trọn vẹn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc chặng đường 21 năm
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng thời kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh
giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc kể từ Cách mạng tháng Tám năm 1945. Chiến công
hiển hách đã làm kinh ngạc làm kinh ngạc cả thế giới.
Nhìn lại thắng lợi vang dội của 45 năm về trước, chúng ta càng nhận thức rõ ràng
hơn về nghệ thuật chỉ đạo kết thúc chiến tranh tài tình, sáng tạo của tập thể Bộ Chính trị
Đảng Lao động Việt Nam, vượt qua mọi hoạch định, toan tính chiến tranh xâm lược của đối
phương. Quá trình chỉ đạo chiến lược của Bộ Chính trị trong giai đoạn kết thúc chiến tranh
5

1.10 Page 10

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
ấy đã để lại những bài học lịch sử lớn, quan trọng đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay, như: kiên định mục tiêu độc lập dân và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh mới; bám sát thực tiễn, nhận
diện nắm bắt đúng thời cơ, phát huy sức mạnh nội lực, kết hợp với tranh thủ những điều
kiện khách quan thuận lợi để vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi mục tiêu cơ bản đề ra;
tăng cường giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ trong mọi
chủ trương, đường lối, chính sách vì lợi ích quốc gia, dân tộc; phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân, xây dựng tiềm lực, thế trận quốc phòng - an ninh vững chắc, lấy lực
lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt...
2. Chiến dịch Hồ Chí Minh (26/4 30/4/1975) giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất đất nước1 // https://tulieuvankien.dangcongsan.vn. 2018. Ngày 26 tháng 1.
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử - chiến dịch quyết chiến, chiến lược trong tổng tiến
công và nổi dậy mùa Xuân 1975 - là mốc son chói lọi, đánh dấu cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước đã kết thúc thắng lợi và nhân dân Việt Nam đã thực hiện trọn vẹn tư tưởng
chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”; giải phóng
hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Tình hình chung
- Hình thức: Chiến dịch tiến công chiến lược
- Không gian: Thành phố Sài Gòn và vùng lân cận
- Thời gian: Từ 26/4 đến
30/4/1975
- Lực lượng tham chiến:
+ Ta: Các quân đoàn bộ binh 1,
2, 3, 4, 232 (tổng cộng 15 sư đoàn); các
trung, lữ đoàn bộ binh; 4 trung, lữ đoàn
tăng - thiết giáp; 6 trung đoàn đặc công
và các đơn vị hỏa lực, kỹ thuật khác.
Tổng cộng: 240.000 quân, 400
xe tăng, thiết giáp, 420 pháo…
+ Địch: 5 sư đoàn bộ binh: 22,
25, 5, 18 và sư đoàn thủy quân lục
chiến; 2 lữ đoàn dù, 1, 4; lữ 3 kỵ binh
thiết giáp; 4 liên đoàn biệt động quân,
bảo an và các đơn vị khác.
Tổng công: 240.000 quân, 625 tăng, thiết giáp, 400 pháo…
- Kết quả: Ta tiêu diệt quân đoàn 3 và toàn bộ các lực lượng tăng cường, diệt và làm
tan rã quân đoàn 4 cùng tất cả các lực lượng địch còn lại trên chiến trường; giải phóng thành
1 Theo Lch squân sVit Nam
6

2 Pages 11-20

▲back to top

2.1 Page 11

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
phố Sài Gòn – Chợ Lớn, đòn quyết định làm tan rã toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền, giải
phóng hoàn toàn miền Nam.
Diễn biến chính
Mùa Xuân năm 1975, sau khi bị mất toàn bộ quân khu 1 và 2, một nửa binh lực của
quân ngụy đã bị tiêu diệt, trong thế tan rã chiến lược hầu như không thể cứu vãn nổi, địch
vẫn ra sức tổ chức lực lượng, tích
cực phòng ngự, lấy việc bảo vệ Sài
Gòn làm mục đích chiến lược để có
thể mặc cả với ta trong trường hợp
dẫn đến thương lượng hòa bình.
Chúng lần lượt tổ chức các tập
đoàn phòng ngự từ xa, như tập
đoàn phòng ngự Phan Rang, tập
đoàn phòng ngự Xuân Lộc và sau
đó là tập đoàn phòng ngự trực tiếp
thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn.
Ngày 18/4, ta tiến công Phan
Rang, đập tan tuyến phòng ngự của
địch ở đây, bắt sống Trung tướng
Tư lệnh mặt trận Nguyễn Vĩnh Nghi. Ngày 20/4, trước sức tiến công của ta, Sư đoàn 18
ngụy tháo chạy, Xuân Lộc thất thủ.
Các tuyến phòng ngự từ xa đã bị phá vỡ, địch co về phòng ngự trực tiếp thành phố
Sài Gòn với ba tuyến phòng ngự: vòng ngoài (bán kính 25 - 30 km), vòng ven và nội đô.
Giữa tháng 4, ta quyết định mở chiến dịch tiến công mang tên “Hồ Chí Minh” nhằm
giải phóng Sài Gòn và toàn bộ miền Nam trước mùa mưa. Tất cả các lực lượng chiến lược
được huy động cho chiến dịch này.
Sau khi đã hoàn thành công tác chuẩn bị và tập trung một khối lượng rất lớn lực
lượng và phương tiện trong thời gian ngắn nhất ở vùng kế cận Sài Gòn, chiều 26/4, ta nổ
súng mở màn chiến dịch. Từ năm hướng các quân đoàn đồng loạt tiến công Sài Gòn.
Từ 26 đến 28/4, ta chọc
thủng tuyến phòng ngự vòng
ngoài, đập tan sự kháng cự của
các sư đoàn địch, tiếp cận Sài
Gòn. Địch bị rối loạn hoàn toàn
về chiến lược. Từ chiều 28/4,
các cánh quân ngụy không còn
nhận được lệnh từ Tổng hành
dinh và các tướng chỉ huy nữa
vì họ đã tháo chạy ra nước
ngoài. Ngày 29/4, quân ta tổng
tiến công. Các binh đoàn bộ
7

2.2 Page 12

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
đội hợp thành tiến công trong hành tiến, tiêu diệt các cánh quân địch ngăn chặn và phản
kích, nhằm thẳng các mục tiêu đã được phân công. Sáng 30/4, trong thế thua đã rõ ràng,
địch xin ngừng bắn, bộ đội ta vẫn kiên quyết tiến công. Các quân đoàn nhanh chóng đánh
chiếm các mục tiêu. 11h30 ngày 30/4, sau khi Dinh Độc Lập thất thủ, Tổng thống ngụy
Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Ngày 1/5, toàn bộ lực lượng còn lại của quân ngụy tan rã, ta giải phóng hoàn toàn
miền Nam, kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Những phát triển của nghệ thuật quân sự
Đây là chiến dịch tiến công chiến
lược binh chủng hợp thành có quy mô
lớn nhất trong lịch sử chiến đấu của
quân đội ta. Chiến dịch được thực hiện
trong tình huống hai bên mặt đối mặt,
cùng biết rõ ý đồ và lực lượng của nhau,
khó tạo nên yếu tố bất ngờ ngay cả trong
phạm vi chiến thuật, do đó, là bước phát
triển về nghệ thuật chỉ huy. Ta tiến công
trên tất cả các hướng, tạo thành thế hợp
vây ngay từ đầu, khiến địch chỉ còn cách
chấp nhận tác chiến hoặc đầu hàng. Trong đột phá chiến dịch ta vừa đánh địch phòng ngự
vòng ngoài, vừa dùng các binh đoàn mạnh thọc thẳng vào chiều sâu và đầu não địch, đánh
quỵ địch nhanh chóng. Lần đầu tiên ta sử dụng bộ đội tăng thiết giáp tập trung ở quy mô
binh đoàn (lữ đoàn), đảm nhiệm một hướng tiến công chủ yếu với tính chất là đoàn (lữ
đoàn), đảm nhiệm một hướng tiến công chủ yếu với tính chất là cụm cơ động thọc sâu phát
huy được sức đột kích nhanh và tăng cường khả năng tác chiến trong hành tiến. Về chỉ đạo
chiến lược, ta đã kết hợp chiến dịch với tiến công chiến lược trên toàn chiến trường, giành
thắng lợi hoàn toàn.
3. Chiến dịch mang tên Hồ Chí Minh / Minh Duyên tổng hợp //
https://dantri.com.vn. 2020. Ngày 17 tháng 4.
(Dân trí) - Ngày 14-4-1975, thể theo nguyện vọng của nhân dân và các lực lượng vũ
trang trên chiến trường, trong đó có quân và dân thành phố Sài Gòn-Gia Định, Bộ Chính trị
đã phê chuẩn đề nghị của Bộ Chỉ huy chiến dịch đặt tên Chiến dịch tiến công giải phóng Sài
Gòn-Gia Định là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Tin chiến dịch được mang tên Bác Hồ kính yêu
đến với toàn dân, toàn quân đã tạo nên sức mạnh mới, góp phần làm nên chiến thắng mùa
Xuân năm 1975 lịch sử.
“Đồng ý Chiến dịch Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh”
Sau những thắng lợi to lớn của các chiến dịch Tây Nguyên, Trị Thiên, Huế-Đà Nẵng,
đánh dấu bước trưởng thành mới và toàn diện của quân đội ta, các đơn vị bộ độ chủ lực tích
lũy thêm được nhiều kinh nghiệm về tổ chức, về chỉ huy tác chiến và về kết hợp binh chủng
trong các chiến dịch có quy mô lớn. Thu được thêm nhiều vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật của
8

2.3 Page 13

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
địch, làm cho sức mạnh chiến đấu của
các binh đoàn chủ lực của ta tăng lên.
Lực lượng vũ trang địa phương của ta
cũng phát triển về cả số lượng và chất
lượng, đã tạo điều kiện thuận lợi cho
trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.
Trong khi đó, quân đội Việt Nam
Cộng hòa bị tổn thất nặng về số quân,
tiêu hao lớn về vật chất trang bị, giảm
sút rất nghiêm trọng về tinh thần chiến
đấu. Chúng ra sức tập hợp số tàn quân
của các quân đoàn 1 và 2, củng cố các đơn vị của quân đoàn 3 và 4, bố trí lại lực lượng
thành nhiều tuyến phòng thủ nhằm ngăn chặn quân ta từ xa như: Tây Ninh, Xuân Lộc, Phan
Rang là những khu vực phòng thủ then chốt của địch.
Bộ Chính trị Trung ương Đảng khi đó đã kịp thời đánh giá tình hình, so sánh về thế
lực giữa ta và địch đã có sự chuyển biến vượt bậc rất có lợi cho quân ta.
Ngày 31-3-1975, Bộ Chính trị đã họp và nhận định: cuộc Tổng tiến công chiến lược
đã giành được thắng lợi vô cùng to lớn, tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu 2 quân đoàn,
giải phóng 16 tỉnh, đưa số nhân dân vùng giải phóng lên 8 triệu; thời cơ chiến lược tiến
hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã chín muồi. Cần có sự quyết
tâm lớn hoàn thành trận quyết định chiến lược cuối cùng tốt nhất trong tháng 4-1975.
Trong cuộc họp ngày 8-4-1975 ở căn cứ Tà Thiết (Lộc Ninh), Bộ Chính trị quyết
định thành lập Bộ Tư lệnh chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định gồm các đồng
chí: Văn Tiến Dũng (Tư lệnh); Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, Lê Trọng Tấn (Phó Tư lệnh);
Phạm Hùng (Chính ủy); Lê Ngọc Hiển (Tham mưu trưởng)… Bộ Chính trị khẳng định:
Cuộc tổng tiến công chiến lược của ta đã bắt đầu, thời cơ chiến lược mới đã đến, ta có điều
kiện hoàn thành sớm, quyết tâm giải phóng miền Nam. Do đó, cần tập trung nhanh nhất lực
lượng, binh khí, kỹ thuật và vật chất để giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa.
Sau đó, có nhiều ý kiến đề nghị nên lấy tên Bác đặt tên cho chiến dịch tiến công vào
Sài Gòn. Bộ chỉ huy Chiến dịch thấy ý kiến này rất hợp với tình cảm của cán bộ, chiến sĩ và
nhân dân ta đối với Bác nên đã nhất trí điện ra Hà Nội xin ý kiến Bộ Chính trị cho đặt tên
Chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định là Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Ngày 14-4-1975, thể theo nguyện vọng của nhân dân và các lực lượng vũ trang trên
chiến trường, trong đó có quân và dân thành phố Sài Gòn-Gia Định, Bộ Chính trị đã phê
chuẩn đề nghị của Bộ Chỉ huy chiến dịch.
Bức điện của Bộ Chính trị do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành
Trung ương ký gửi Bộ Chỉ huy chiến dịch có nội dung: “Đồng ý Chiến dịch Sài Gòn lấy tên
là Chiến dịch Hồ Chí Minh”2. Tin chiến dịch được mang tên Người đến với toàn dân, toàn
quân đã tạo nên sức mạnh mới, thúc đẩy việc chuẩn bị, sẵn sàng cho chiến dịch.
2 Tác phẩm “Đại thắng mùa xuân”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.183.
9

2.4 Page 14

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Cũng trong ngày 14-4-1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua lần cuối
kế hoạch giải phóng Sài Gòn-Gia Định. Kế hoạch xác định cuộc tiến công sẽ diễn ra đồng
thời trên 5 hướng: Tây bắc, Đông bắc, Đông, Đông nam, Tây và Tây nam; thực hiện đánh
nhanh, đánh dứt điểm, tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn quân địch, bảo vệ dân, bảo vệ các cơ
sở kinh tế, văn hóa trong thành phố. Đòn tiến công quân sự có nhiệm vụ chia cắt, bao vây,
tiêu diệt và làm tan rã các sư đoàn địch ở vòng ngoài, không cho chúng co cụm ở nội thành;
đánh chiếm các cầu lớn mở đường cho các binh đoàn đột kích bằng lực lượng binh chủng
hợp thành, cùng với bộ đội đặc công, biệt động và quần chúng nổi dậy đánh chiếm các mục
tiêu chủ yếu, trong đó có 5 mục tiêu quan trọng nhất là: Dinh Độc lập, Bộ Tổng tham mưu,
sân bay Tân Sơn Nhất, Biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát. Phát động quần chúng nổi dậy
phối hợp và phát huy kết quả của đòn tiến công quân sự.
Sau khi thông qua lần cuối kế hoạch chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định, Bộ
Chính trị khẳng định quyết tâm: Thời cơ quân sự và chính trị để mở cuộc Tổng tiến công
vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày, kịp thời phát động tiến công trên các
hướng, không để chậm. Nếu để chậm thì không có lợi cả về chính trị và quân sự. Kịp thời
hành động lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn.
Chiến thắng lịch sử
Ngày 26-4-1975, sau khi chọc thủng tuyến phòng xa của quân đội Mỹ, năm cánh
quân của quân đội ta gồm 4 quân đoàn chủ lực và Đoàn 232 cùng với binh khí đã tập kết
đầy đủ tại nơi quy định, hình thành thế trận bao vây Sài Gòn. 17 giờ cùng ngày quân ta nổ
súng bắt đầu tiến công lớn vào Sài Gòn.
Đêm 28-4-1975, Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho các cánh quân của ta ở năm
hướng tiến công đồng loạt vào Sài Gòn, đồng thời chỉ thị cho các Quân khu 8 và 9 ở đồng
bằng Nam Bộ phối hợp tiến công giải phóng đồng bằng Nam Bộ. 5 giờ sáng ngày 29-4-
1975, các cánh quân của ta cùng đánh vào các căn cứ phòng ngự của địch để tiến vào nội
thành Sài Gòn. Những khẩu hiệu động viên ngắn gọn và thiết thực như: “chậm trễ là có tội
với lịch sử”; “thời cơ là mệnh lệnh” của Bộ Chính trị được nêu lên. Tất cả các đơn vị bừng
bừng khí thế tiến công, quyết đánh chiếm các mục tiêu được phân công.
Sau 3 ngày đêm chiến đấu quyết liệt, quân đội ta đã đánh chiếm được nhiều căn cứ,
vị trí, đập tan tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch, tiêu diệt và làm tan rã phần lớn các sư
đoàn 5, 25,22, 18,7 của quân địch.
Cả nước hướng về Sài Gòn-Gia Định. Toàn bộ lực lượng tiến công Sài Gòn đã sẵn
sàng. Cán bộ chiến sỹ sục sôi khí thế quyết thắng. Trên mũ, trên tay áo, trên báng súng, trên
nòng pháo, trên thành xe đều ghi lời hịch của Bác Hồ “Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta”.
Sáng sớm ngày 30-4-1975, từ khắp các hướng quân đội ta ào ạt tiến vào Sài Gòn.
Quân ta nhanh chóng chiếm được Bộ tư lệnh không quân và Bộ tư lệnh sư đoàn dù của địch
làm chủ sân bay Tân Sơn Nhất. 10 giờ 45 phút cùng ngày, ta tiến đánh vào Dinh Độc lập,
bắt sống toàn bộ chính quyền Sài Gòn, buộc Tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố
đầu hàng không điều kiện. 11 giờ 30 phút, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc phủ Tổng
thống chính quyến Sài Gòn - Dinh Độc Lập. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng!
10

2.5 Page 15

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Từ thủ đô Hà Nội đến những bản làng hẻo lánh, các hải đảo xa xôi đều vang tiếng
reo mừng. Cả dân tộc vang khúc khải hoàn “ Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng”, kết
thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí
Minh là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố: Đó là sự lãnh đạo của Đảng ta, đứng đầu
là Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo, độc
lập tự chủ; là sức mạnh của truyền thống bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, là
ý chí kiên cường, bất khuất, ý thức làm chủ vận mệnh đất nước của cả dân tộc Việt Nam với
tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”; là cuộc chiến đấu dũng cảm, thông minh của
cả nước mà nòng cốt là lực lượng vũ trang ba thứ quân và tính ưu việt của chế độ XHCN ở
miền Bắc; là tình đoàn kết và liên minh chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương; là sự
đồng tình ủng hộ mạnh mẽ của các lực lượng cách mạng và hoà bình trên thế giới.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là sự kiện quan trọng đánh dấu một mốc son chói lọi
trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta: Từ một đất nước bị
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm chiếm, từ một dân tộc bị nô lệ, Việt Nam đã giành lại
nền độc lập dân tộc sau gần một thế kỷ mất nước và trở thành một quốc gia độc lập, thống
nhất, có đầy đủ chủ quyền được quốc tế thừa nhận. Với đại thắng này, nhân dân ta đã vĩnh
viễn thoát khỏi ách nô dịch của các nước đế quốc, đất nước vĩnh viễn thoát khỏi họa bị chia
cắt, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trên cả nước, bảo vệ những thành quả bước đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do, thống nhất và chủ
nghĩa xã hội.
4. Dương Đình Quảng. Chiến dịch Hồ Chí Minh trận quyết chiến chiến lược giành
toàn thắng / Dương Đình Quảng3 // https://special.nhandan.vn.
Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang sử chói
lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và
trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự
kiện có tầm quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc.
Về thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là
chiến dịch quyết chiến chiến lược mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Ðảng ta cũng đã
đánh giá: "Là bước phát triển ở giai đoạn chín muồi trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, là kết quả hợp thành của tất cả những lực lượng, những yếu tố làm nên sức
mạnh tất thắng của nhân dân ta trong cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã diễn ra với tốc độ "Một ngày bằng 20 năm".
3 Đại tá, PGS.TS Dương Đình Quảng
Hc vin Quc Phòng
11

2.6 Page 16

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Chỉ trong 55 ngày đêm, với sức mạnh áp đảo cả về quân sự và chính trị, quân và dân
ta đã giành toàn thắng bằng ba trận đánh then chốt đập tan hoàn toàn bộ máy quân sự khổng
lồ và hiện đại của chính quyền tay sai được xếp vào loại mạnh nhất ở Ðông-Nam châu Á.
Trận then chốt thứ nhất - Chiến dịch Tây Nguyên, mở đầu bằng trận bấm huyệt ở
Buôn Ma Thuột, tiêu diệt một tập đoàn phòng ngự quan trọng của địch, là khởi điểm dẫn
đến sự tan rã và sụp đổ về chiến lược của ngụy quân, ngụy quyền, mở ra thời cơ tổng tiến
công chiến lược.
Trận then chốt thứ hai - Chiến dịch Huế-Ðà Nẵng, được tổ chức chuẩn bị trong quá
trình phát triển của cuộc Tổng tiến công chiến lược, chiến dịch đã tiêu diệt quân đoàn 1
ngụy, quét sạch địch ở ven biển miền trung. Thắng lợi của chiến dịch này đã cùng với chiến
dịch Tây Nguyên làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng về mặt chiến lược, trực tiếp đánh bại
âm mưu co cụm chiến lược của địch, tích cực góp phần tạo điều kiện cả về thế trận, lực
lượng và thời cơ cho đòn then chốt quyết định thứ ba - Chiến dịch quyết chiến chiến lược:
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là cuộc hội quân lớn nhất
và diễn biến trận đánh hết sức nhanh chóng: Chiến dịch Ðiện Biên Phủ tập trung hầu hết các
đại đoàn ở chiến trường miền bắc (bốn đại đoàn: 308, 312, 316 và 304 thiếu), chiến dịch đã
diễn ra trong 55 ngày đêm (17 giờ ngày 13/3 đến 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954) đúng bằng
với 55 ngày đêm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 (kể từ khi nổ
súng tiến công Buôn Ma Thuột, ngày 10/3/1975) đến khi giải phóng hoàn toàn miền nam
Việt Nam (1/5/1975), nhưng chỉ trong phạm vi trên ba ngày (17 giờ ngày 26/4 đến 11 giờ
30 phút ngày 30/4) với sức mạnh của năm quân đoàn chủ lực tinh nhuệ làm nòng cốt, chiến
dịch mang tên Bác Hồ giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất Tổ
quốc đã làm nức lòng nhân dân cả nước, làm cả hành tinh chấn động.
12

2.7 Page 17

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta mà đỉnh cao là
Ðại thắng mùa Xuân năm 1975 với trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, Chiến dịch Hồ
Chí Minh, đã đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta, kết thúc vẻ vang quá
trình 30 năm chiến tranh Cách mạng giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo
đúng đắn, tài tình của Ðảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh
đạo.
Với thắng lợi này, lần đầu tiên sau 117 năm, trên đất nước ta không còn bóng một tên
xâm lược. Nâng lên tầm cao truyền thống yêu nước, bất khuất, kiên cường, ý thức tự lập, tự
cường, tự hào dân tộc, thể hiện trí thông minh, sự sáng tạo của nhân dân ta. Ðưa dân tộc ta
bước vào một kỷ nguyên mới, thời đại mới đầy hứa hẹn, kỷ nguyên và thời đại độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trên toàn bộ Tổ quốc Việt Nam thân yêu từ mũi Cà Mau đến địa đầu
Móng Cái.
Thắng lợi của sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
mùa Xuân năm 1975 mà chiến dịch quyết chiến chiến lược mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh
là đỉnh cao, trước hết là thắng lợi của đường lối Chính trị, đường lối quân sự và đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Ðảng ta; là thắng lợi của tinh thần chiến
đấu anh dũng phi thường, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ Việt Nam được phát
triển đến đỉnh cao của toàn Ðảng, toàn dân và các lực lượng vũ trang nhân dân ta trong cả
nước; là thắng lợi của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền bắc đã phát huy cao độ tính hơn hẳn
của nó trong chiến tranh giải phóng; là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu keo sơn, phối
hợp chặt chẽ của nhân dân và quân đội hai nước Lào, Campuchia, sự đồng tình ủng hộ và
giúp đỡ quý báu của các nước xã hội chủ nghĩa, của nhân dân yêu chuộng hòa bình và công
lý trên toàn thế giới.
13

2.8 Page 18

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Ðó còn là thắng lợi và thành công tiêu biểu, phát triển đến đỉnh cao của nền khoa học
và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong trận quyết chiến chiến lược lịch sử - Chiến dịch Hồ
Chí Minh, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận quân sự của chủ nghĩa Mác - Lê-
nin.
Bộ đội lên máy bay vận tải vào miền nam tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh,
giải phóng Sài Gòn (tháng 4/1975). (Ảnh: TTXVN)
14

2.9 Page 19

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Lực lượng thọc sâu của Quân đoàn 1 vượt đường 16 tiến vào
giải phóng Sài Gòn. (Ảnh tư liệu Bảo tàng Binh đoàn Quyết thắng)
Ngày 9/4/1975, các đơn vị bộ binh và xe tăng thần tốc tiến về giải phóng Xuân Lộc,
“cánh cửa thép” – căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch bảo vệ Sài Gòn từ phía Đông Bắc.
(Ảnh tư liệu: TTXVN)
15

2.10 Page 20

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Bộ đội Quân đoàn 3 đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. (Ảnh tư liệu: TTXVN)
Chiến dịch Hồ Chí Minh là đỉnh cao của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân
năm 1975. Ðây là chiến dịch tiến công lớn chưa từng có trên chiến trường nước ta, vượt hẳn
tất cả các chiến dịch lớn trước đó cả về quy mô lực lượng, cường độ và nhịp độ tiến công,
nội dung tác chiến hiệp đồng quân binh chủng và mức độ hoàn thành triệt để nhiệm vụ
chiến lược cũng như mục đích chính trị của chiến tranh cách mạng Việt Nam.
Trong một thời gian rất ngắn, ta đã tập trung vào chiến dịch một lực lượng quân sự
lớn chưa từng có trong điều kiện chiến trường nước ta, hình thành ưu thế áp đảo, tiêu diệt và
làm tan rã nhanh chóng tập đoàn phòng ngự lớn có chuẩn bị trước của địch tại trung tâm đầu
não của chúng. Ta đã sử dụng năm quân đoàn chủ lực tinh nhuệ, chưa kể các lực lượng dự
bị chiến lược và lực lượng tại chỗ của Nam Bộ; cùng với hàng chục sư đoàn, lữ đoàn, trung
đoàn binh chủng, quân chủng với nhiều vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại với khoảng 60
nghìn tấn vật chất kỹ thuật-hậu cần. Quy mô sử dụng lực lượng trong Chiến dịch Hồ Chí
Minh không những lớn hơn hẳn so với các chiến dịch Tây Nguyên, Huế-Ðà Nẵng trong
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà còn lớn nhất trong lịch sử chiến
tranh cách mạng của ta. Ðây không chỉ là khoa học về tổ chức mà còn là bước phát triển cao
về nghệ thuật tạo ưu thế tuyệt đối hơn địch trên không gian và thời gian quyết định.
Không chỉ tập trung lực lượng lớn, tạo ưu thế tuyệt đối so với địch là yếu tố cơ bản
đầu tiên quyết định thắng lợi của chiến dịch, mà còn trong thời gian rất ngắn, ta đã hình
thành được thế trận bao vây lớn, chia cắt hiểm, hãm cả tập đoàn phòng ngự của địch vào
tình thế bị bao vây chặt trên tất cả các hướng: đông, bắc, tây bắc, tây nam, nam; với thế trận
tiến công áp đảo này, ta đã tạo được một trong những điều kiện cơ bản để thắng nhanh, đẩy
địch tan vỡ rất nhanh.
Ðây là một thế trận rất hiểm dựa trên cơ sở lực lượng rất mạnh của toàn chiến dịch,
với cả lực lượng quân sự và chính trị, lực lượng chủ lực và lực lượng địa phương, trong đó
16

3 Pages 21-30

▲back to top

3.1 Page 21

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
nổi lên là vai trò nòng cốt quyết định đi trước một bước của các binh đoàn cơ động chiến
lược. Ðó là thế trận tiến công của chiến tranh nhân dân Việt Nam phát triển lên đỉnh cao.
Trong một thời gian rất ngắn, ta đã tập trung vào chiến dịch một lực lượng quân sự
lớn chưa từng có trong điều kiện chiến trường nước ta, hình thành ưu thế áp đảo, tiêu diệt và
làm tan rã nhanh chóng tập đoàn phòng ngự lớn có chuẩn bị trước của địch tại trung tâm đầu
não của chúng. Ta đã sử dụng năm quân đoàn chủ lực tinh nhuệ, chưa kể các lực lượng dự
bị chiến lược và lực lượng tại chỗ của Nam Bộ; cùng với hàng chục sư đoàn, lữ đoàn, trung
đoàn binh chủng, quân chủng với nhiều vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại với khoảng 60
nghìn tấn vật chất kỹ thuật-hậu cần. Quy mô sử dụng lực lượng trong Chiến dịch Hồ Chí
Minh không những lớn hơn hẳn so với các chiến dịch Tây Nguyên, Huế-Ðà Nẵng trong
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà còn lớn nhất trong lịch sử chiến
tranh cách mạng của ta. Ðây không chỉ là khoa học về tổ chức mà còn là bước phát triển cao
về nghệ thuật tạo ưu thế tuyệt đối hơn địch trên không gian và thời gian quyết định.
Trong một thời gian rất ngắn, ta đã kết hợp chặt chẽ việc tập trung lực lượng ưu thế
tiêu diệt các sư đoàn chủ lực của địch, cơ động ở tuyến phòng thủ vòng ngoài và thọc sâu
bằng binh đoàn đột kích lớn cơ giới hóa và trung tâm thành phố đánh chiếm ngay năm mục
tiêu quan trọng then chốt nhất đã được lựa chọn: Bộ Tổng tham mưu ngụy, dinh Ðộc Lập,
Biệt khu Thủ đô, Tổng nha cảnh sát, sân bay Tân Sơn Nhất.
Ðây là sự sáng tạo trong vận dụng cách đánh chiến dịch của ta, khác hoàn toàn với
mọi cách đánh chiến dịch tiến công trước đó. Ta đã kết hợp ngoài đánh vào, trong đánh ra,
kết hợp quả đấm mạnh của các binh đoàn chủ lực với đánh nhỏ nhưng hiểm của các lực
lượng địa phương, làm cho địch bị phân tán, chia cắt, tổ chức phòng ngự của chúng mất
hiệu lực và nhanh chóng tan vỡ.
Với cách đánh này chẳng những để dứt điểm nhanh gọn và chắc thắng trong điều kiện
hai bên đều có binh lực, hỏa lực mạnh, mà thành phố ít bị tàn phá nhất, đồng bào ít bị thiệt
hại nhất về tính mạng, tài sản và cuộc sống thành phố mau trở lại bình thường.
Chiến dịch đã thực hiện hiệp đồng chặt chẽ giữa nhiều lực lượng, cả binh chủng và
quân chủng hiện đại trên địa bàn rộng lớn. Ðây là sự phối hợp ăn ý giữa các binh đoàn chủ
lực với lực lượng địa phương, giữa bốn hướng tiến công, giữa các binh chủng của một tập
đoàn chiến lược binh chủng hợp thành. Ðó là sự hiệp đồng giữa đánh địch trên tuyến phòng
thủ từ xa và đột phá tuyến phòng ngự cơ bản ở ven đô của địch với đánh địch bằng binh
đoàn thọc sâu vào trung tâm thành phố; giữa cắt đường bộ với ngăn đường sông, khống chế
đường không; giữa tiêu diệt, đánh tan bộ binh thiết giáp với chế áp trận địa pháo binh và
bắn phá, ném bom làm tê liệt sân bay địch. Thực hiện được sự hiệp đồng tác chiến như vậy
là một bước tiến mới về nghệ thuật chiến dịch của ta trong chiến tranh cách mạng.
Chiến dịch đã thực hiện hiệp đồng chặt chẽ giữa nhiều lực lượng, cả binh chủng và
quân chủng hiện đại trên địa bàn rộng lớn. Ðây là sự phối hợp ăn ý giữa các binh đoàn chủ
lực với lực lượng địa phương, giữa bốn hướng tiến công, giữa các binh chủng của một tập
đoàn chiến lược binh chủng hợp thành. Ðó là sự hiệp đồng giữa đánh địch trên tuyến phòng
thủ từ xa và đột phá tuyến phòng ngự cơ bản ở ven đô của địch với đánh địch bằng binh
đoàn thọc sâu vào trung tâm thành phố; giữa cắt đường bộ với ngăn đường sông, khống chế
17

3.2 Page 22

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
đường không; giữa tiêu diệt, đánh tan bộ binh thiết giáp với chế áp trận địa pháo binh và
bắn phá, ném bom làm tê liệt sân bay địch. Thực hiện được sự hiệp đồng tác chiến như vậy
là một bước tiến mới về nghệ thuật chiến dịch của ta trong chiến tranh cách mạng.
Với chiến dịch tiến công quyết chiến chiến lược cuối cùng, ta đã kết hợp trên quy
lớn ba mũi giáp công, tiến công rất mạnh
về quân sự với nổi dậy của quần chúng,
lấy tiến công quân sự làm chính, đòn
tiêu diệt lớn của khối chủ lực giữ vai trò
quyết định, đồng thời phát huy sức mạnh
tổng hợp lớn nhất cả quân sự và chính
trị, tiến công và nổi dậy để giành toàn
thắng trong thời gian ngắn nhất.
Ðây là sự kết hợp đã đạt đến trình
độ nghệ thuật phát triển cao trong chiến
tranh giải phóng, cả quy luật chiến tranh
và quy luật khởi nghĩa đều phát huy tác
dụng và luôn tác động lẫn nhau, trong đó
quy luật chiến tranh ngày càng giữ địa vị chi phối và quyết định.
Chiến dịch giải phóng Sài Gòn, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân ta đã được Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam
quyết định vào ngày 14/4/1975 lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ðó chính là vì đại thắng
lợi của dân tộc, một chiến công vĩ đại dâng lên Bác Hồ, đồng thời là một chiến công hiển
hách dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ đã đưa nhân dân ta đến
những chiến công kỳ diệu trong kháng chiến cứu nước và những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
5. 5 cánh quân chủ lực quyết hạ 5 mục tiêu chủ yếu // https://baohagiang.vn.
2012. Ngày 27 tháng 4.
Ngày 25-4-1975: Các đoàn quân của ta tiến vào các điểm tập kết bao vây Sài Gòn
theo quyết định của Bộ Chỉ huy chiến dịch. Nhiệm vụ của 5 cánh quân chủ lực đánh chiếm
5 mục tiêu chủ yếu những cơ quan đầu não quan trọng nhất của ngụy quân, ngụy quyền
Sài Gòn - vốn những bộ phận chính trong guồng máy chiến tranh và kìm kẹp nhân dân
miền Nam, do Mỹ điều khiển.
1. Dinh Độc Lập: Từ hướng Đông-Nam, Quân đoàn 2- “Binh đoàn Hương Giang”
(Sư đoàn 304, 325 phối hợp Sư đoàn 3/QK 5) cùng đặc công vùng ven và thị Vũng Tàu
đặt pháo ở Nhơn Trạch bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất, tấn công phát triển mũi nhọn sang
Cần Giờ, chiếm quận 9, quận 4, phối hợp đánh chiếm Dinh Độc Lập.
Từ hướng Đông, Quân đoàn 4 – “Binh đoàn Cửu Long” từ Biên Hòa- Hố Nai, chọc
thẳng vào Sài Gòn, đánh chiếm mục tiêu này, chiếm lĩnh quận 1, 2, 3 và các mục tiêu như
Căn cứ Hải quân, Bộ Quốc phòng ngụy, Đài Phát thanh...
18

3.3 Page 23

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
2. Bộ Tổng Tham mưu ngụy: Do Quân đoàn 1 – “Binh đoàn Quyết Thắng” (Sư đoàn
320 B, 312), tăng cường thêm Trung đoàn 95 B, một tiểu đoàn đặc công, một tiểu đoàn xe
tăng, một trung đoàn cao xạ tự hành, được pháo binh, cao xạ và tên lửa chi viện, phối hợp
lực lượng địa phương Bình Phước, Bình Dương một trung đoàn đặc công vùng ven tấn
công theo hướng Bắc. Ngoài ra còn có nhiệm vụ tấn công chiếm Bộ Tư lệnh chỉ huy ngụy
tại Vấp, Bình Thạnh, hợp điểm tại Dinh Độc Lập.
3. Sân bay Tân Sơn Nhất: Do Quân đoàn 3 – “Binh đoàn Tây Nguyên” (Sư đoàn 316,
320 A, 10) cùng lực lượng địa phương tại Tây Ninh, Củ Chi, hai Trung đoàn Gia Định, các
tiểu đoàn của Thành Đội Sài Gòn và các đơn vị đặc công biệt động, được pháo binh, cao xạ
chiến dịch chi viện, tấn công theo hướng Tây-Bắc, đảm nhận nhiệm vụ tấn công. Chia các
mũi để hợp điểm tại Dinh Độc Lập; chiếm lĩnh Tân Bình, Phú Nhuận.
4. Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô: Từ hướng Tây-Nam, Đoàn 232 (Sư đoàn 3, 5, 9 và 4
trung đoàn độc lập, 1 trung đoàn đặc công) tăng cường thêm tiểu đoàn tăng T54, tiểu đoàn
PT85, tiểu đoàn pháo 130mm, 1 trung đoàn và 5 tiểu đoàn pháo cao xạ hiệp đồng với Sư
đoàn 8 đảm trách. Sau khi đánh Bộ Tư lệnh ngụy, sẽ một bộ phận hợp điểm tại Dinh Độc
Lập.
5. Tổng nha Cảnh sát ngụy: Đoàn 232 tổ chức lực lượng cấp sư đoàn hỏa lực
mang vác, thọc vào đánh chiếm cầu Nhị Thiên Đường, bộ phận hợp điểm tại Dinh Độc
Lập. Sau đó chiếm lĩnh quận 5, 6, 8, 10, 11 và huyện Bình Chánh.
6. Nguyễn Bá Dương. Đại thắng mùa Xuân 1975 - Sức mạnh của niềm tin chiến
thắng và ý chí thống nhất Tổ quốc / Nguyễn Bá Dương4 // https://www.tuyengiao.vn.
2015. Ngày 1 tháng 4.
(TG) - Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, đại
thắng mùa Xuân 1975 là một trong những
chiến công chói lọi nhất, đánh dấu bước
ngoặt quyết định đưa đất nước ta bước hẳn
vào kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã
hội.
“Đánh chết cái nết không chừa”
Sau khi ký Hiệp định Paris về Việt
Nam, Mỹ và các nước phụ thuộc buộc phải
rút hết quân ra khỏi miền Nam Việt Nam vào
ngày 29/3/1973, song đế quốc Mỹ vẫn âm
mưu tiếp tục dùng ngụy quân, ngụy quyền
Sài Gòn làm công cụ để thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh,” áp dụng chủ
nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam với chính sách “Người Việt trị người Việt,” biến
4 Thiếu tướng, PGS. TS. NGND. Nguyễn Bá Dương.
Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn Bộ Quốc phòng
19

3.4 Page 24

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
miền Nam thành một nước với “chế độ quốc gia” thân Mỹ, có lợi cho Mỹ, mà thực chất là
một thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Vì vậy, bằng mọi cách, Mỹ-Ngụy ra sức bao vây, lấn chiếm vùng giải phóng của ta,
cố tình tiêu diệt Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Để thực hiện mục tiêu này, Mỹ ồ ạt đổ tiền của, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho
Ngụy quyền Sài Gòn. Năm 1973, Mỹ đã viện trợ cho Ngụy 2.670 triệu USD, 700 máy bay,
500 khẩu pháo, 400 xe tăng, xe bọc thép, bổ sung vật tư dự trữ chiến tranh hơn 2 triệu tấn.
Đồng thời, ráo riết bắt lính, tăng lực lượng vũ trang ở cơ sở để trực tiếp khống chế nhân
dân.
Vì vậy, chỉ trong khoảng thời gian chưa đầy một năm, số lượng phòng vệ dân sự đã
tăng lên 1,5 triệu người, đưa hơn 20% sỹ quan xuống chỉ huy xã, phường, thị trấn.
Cậy vào sức mạnh và sự viện trợ của Mỹ, quân Ngụy liên tiếp mở những cuộc hành
quân càn quét, “các chiến dịch tràn ngập lãnh thổ,” tàn sát đẫm máu đồng bào, chiến sỹ ta.
Cũng trong năm 1973, Ngụy quyền Sài Gòn đã tiến hành gần 10.000 cuộc tiến quân
càn quét, lấn chiếm vùng tranh chấp từ cấp tiểu đoàn trở lên cùng với 350.000 cuộc hành
quân cảnh sát-bình định trong vùng chúng kiểm soát để duy trì lực lượng răn đe của Mỹ ở
các vùng phụ cận Việt Nam, nhất là ở Lào và Campuchia. Đồng thời, tiếp tục tăng cường
các hoạt động ngoại giao để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng Việt Nam.
Từ giữa năm 1973, Mỹ không ngừng tiếp tay cho Ngụy lấn chiếm và bình định, điên
cuồng đánh phá hòng xóa bỏ vùng giải phóng, gây cho ta những tổn thất nhất định, tiến tới
thực hiện âm mưu quay trở lại xâm lược nước ta.
Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam với việc khai mở con đường đi đến Đại thắng mùa
Xuân 1975
Trước bối cảnh, tình hình ấy, Đảng ta kiên quyết đấu tranh để thực hiện Hiệp định
Paris, gìn giữ hòa bình và từng bước gây dựng, phát triển phong trào cách mạng Việt Nam.
Đồng thời, chuẩn bị lực lượng để chống trả sự can thiệp của không quân và hải quân Mỹ khi
Ngụy quân Ngụy quyền Sài Gòn lâm vào tình thế khốn cùng, bị ta tiêu diệt.
Tháng 7/1973, Hội nghị Trung ương lần thứ XXI đã phát hiện một số nhược điểm ta
đã mắc phải từ sau Hiệp định Paris như phong trào chính trị trong nhân dân còn yếu, đấu
tranh chính trị, quân sự, binh vận chưa đủ mạnh, vùng giải phóng chưa được củng cố vững
chắc, lực lượng vũ trang chưa phát triển cân đối; bộ đội địa phương và quân dân du kích còn
yếu...
Từ đó, Đảng ta khẳng định, con đường của cách mạng miền Nam vẫn là con đường
bạo lực, cần nắm vững thời cơ, kiên định giữ vững đường lối chiến lược tiến công để thực
hiện thắng lợi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Tại Hội nghị này, Đảng ta chỉ rõ kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam vẫn là đế
quốc Mỹ và tay sai của chúng. Đế quốc Mỹ vừa là kẻ chủ mưu, vừa là chỗ dựa của bọn tay
sai.
Ngụy quân Ngụy quyền Sài Gòn là tay sai đắc lực của Mỹ; do đó, kẻ thù trực tiếp
cần phải đánh đổ là tập đoàn thống trị tay sai Mỹ. Yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt
20

3.5 Page 25

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Nam là đẩy mạnh đấu tranh trên cả ba mặt trận: chính trị, quân sự, ngoại giao; thắng địch
từng bước và chủ động trong mọi tình huống, kiên quyết đưa cách mạng Việt Nam tiến lên.
Đảng ta còn xác định nhiều nhiệm vụ cấp bách, nhiều giải pháp cụ thể để thực hiện
đường lối và chủ trương đã vạch ra, đó là: (1) phải nắm giữ lực lượng vũ trang; (2) ra sức
giành dân và giành quyền làm chủ của nhân dân; (3) đẩy mạnh công tác binh vận; (4) đẩy
mạnh đòn tiến công ở thành thị; (5) ra sức xây dựng và củng cố vùng giải phóng; (6) tăng
cường công tác mặt trận; (7) đẩy mạnh công tác ngoại giao; (8) tăng cường công tác Đảng.
Có thể khẳng định rằng Nghị quyết Trung ương XXI là văn kiện lịch sử trực tiếp chỉ
đạo cách mạng và chiến tranh cách mạng giành thắng lợi trong giai đoạn kết thúc chiến
tranh, giải phóng miền Nam Việt Nam. Nó là cơ sở lý luận - thực tiễn đặc biệt quan trọng để
Hội nghị Quân ủy Trung ương (tháng 3/1974) đề ra chủ trương kiên quyết phản công và tiến
công địch, vận dụng linh họat trên cả ba vùng chiến lược. Nhờ đó đã góp phần quyết định
nhanh chóng việc xoay chuyển hẳn cục diện chiến trường miền Nam có lợi cho ta.
Đến giữa năm 1974, trên toàn miền Nam ta đã xóa được 3.600 đồn bốt, giải phóng
thêm 850 ấp với 1,15 triệu dân. Miền Bắc vừa sẵn sàng chiến đấu, vừa tăng cường sức
người, sức của vào miền Nam nhiều hơn bất kì thời gian nào trước đó.
Ta ngày càng mạnh lên, Ngụy càng suy yếu rõ rệt, nước Mỹ lâm vào khủng hoảng
nội bộ trầm trọng. Tuy nhiên, vào thời điểm đó đã xuất hiện thêm một số khó khăn mới, cả
Trung Quốc và Liên Xô đều chấm dứt viện trợ cho ta; Liên Xô chưa muốn ta đẩy mạnh
ngay chiến tranh giải phóng miền Nam, còn Trung Quốc muốn giữ nguyên hiện trạng để có
điều kiện mặc cả với Mỹ.
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã họp nhiều lần để thống
nhất quyết tâm chiến lược và thông qua kế hoạch giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước.
Về chiến lược, Đảng ta hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong thời gian hai năm
1975-1976. Về kế hoạch chiến lược, ta xác định mục tiêu trong năm 1975 là làm cho quân
đội ta lớn mạnh vượt bậc. Nếu thời cơ đến sẽ mở nhiều đợt tấn công nổi dậy, làm cho địch
suy yếu nhanh chóng, tiến tới tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong năm 1976, đánh lớn,
đánh nhanh, đánh Sài Gòn là chỗ hiểm yếu nhất, giành thắng lợi cuối cùng.
Ngoài kế hoạch cơ bản trên, ta còn dự kiến một phương án khác: Nếu thời cơ đến thì
lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Đây không chỉ là quyết tâm chiến lược mà
còn là một sáng tạo lớn trong nghệ thuật chỉ đạo chuẩn bị cuộc Tổng tiến công trong thời kỳ
kết thúc chiến tranh cũng như sau này trong điều hành cuộc Tổng tiến công chiến lược.
Chiến thắng giòn giã và giải phóng toàn tỉnh Phước Long đầu năm 1975 cho thấy rõ
quân Ngụy đã suy yếu nghiêm trọng, còn quân Mỹ không thể trở lại miền Nam Việt Nam.
Chính điều này đã củng cố thêm quyết tâm chiến lược mà Đảng ta đã dự kiến năm 1974.
Trước tình thế, thời cuộc thay đổi từng ngày, thế và lực của ta ngày càng mạnh, Đảng
ta đã quyết định mở cuộc Tổng tiến công chiến lược từ ngày 4/3/1975, bằng ba đòn chiến
lược: chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải
phóng Tây Nguyên; chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử.
21

3.6 Page 26

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Sự kiện ngày 4/3/1975, ta nổ súng tấn công một số mục tiêu ở Pleiku để nghi binh
tạo thế chiến dịch Tây Nguyên; rạng sáng 10/3 đánh Buôn Ma Thuột mở cửa đột phá của
cuộc Tổng tiến công chiến lược năm 1975 giành thắng lợi giòn giã trên chiến trường Tây
Nguyên.
Ngày 18/3/1975, Bộ Chính trị họp, kịp thời bổ sung quyết tâm chiến lược giải phóng
miền Nam ngay trong năm 1975. Cùng khoảng thời gian đó, ta bắt đầu tiến công ở Trị-
Thiên và Khu 5.
Đến 21/3/1975, ta phát triển thành chiến lược tiến công Huế-Đà Nẵng và giải phóng
Huế ngày 26/3/1975. Với thắng lợi như “chẻ tre” trên chiến trường Tây Nguyên và Bắc
Trung Bộ, ngày 25/3/1975, Bộ Chính trị kịp thời bổ sung chiến lược giải phóng hoàn toàn
miền Nam trước mùa mưa.
Đến 29/3/1975, ta giải phóng hoàn toàn Đà Nẵng và năm tỉnh Bắc Trung Bộ. Đến
ngày mùng 3/4/1975, ta đã quét sạch quân địch và giải phóng toàn bộ đồng bằng ven biển
miền Trung.
Ngày 1/4/1975, căn cứ vào sự tấn công dồn dập như vũ bão của ta trên chiến trường,
Bộ Chính trị lại tiếp tục bổ sung quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong thời gian
sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4/1975, trước mùa mưa, không thể để chậm.
Ngày 9/4/1975, ta bắt đầu cuộc chiến đấu tạo thế ở Đông Bắc, Tây Nam Sài Gòn và
đánh địch ở toàn miền Đông Nam Bộ với việc huy động lực lượng lớn nhất trong lịch sử
kháng chiến chống Mỹ, mở một chiến dịch tấn công quy mô nhất trong lịch sử chiến tranh
Việt Nam gồm bốn quân đoàn và một số đơn vị tương đương quân đoàn.
Ngày 26/4/1975, ta bắt đầu chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tiến công giải phóng Sài
Gòn-Gia Định, buộc Tổng thống Ngụy Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng vô điều
kiện vào 11 giờ 30 ngày 30/4/1975, gây chấn động cực kỳ dữ dội đến đồng bằng sông Cửu
Long và Đông Dương.
Trong hai ngày 30/4-1/5/1975, đồng bào và chiến sỹ các tỉnh Đông Nam Bộ đã tiêu
diệt, bắt sống và làm tan rã toàn bộ lực lượng quân địch và giải phóng toàn bộ vùng Đồng
bằng sông Cửu Long rộng lớn.
Đến đây ta đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước,
hoàn thành trọn vẹn cách mạng dân chủ nhân dân trên cả nước, thực hiện tốt lời căn dặn của
Bác Hồ kính yêu: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào.”
Phát huy thắng lợi trên chiến trường miền Nam Việt Nam, được sự hỗ trợ của quân
dân ta, nhân dân Campuchia dành thắng lợi ngày 17/4/1975, nhân dân Lào giành thắng
lợi vào tháng 12/1975. Đó là kết quả của hơn 21 năm dài đằng đẵng quân và dân ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã không tiếc máu xương, không sợ hy sinh, gian khổ, đã anh dũng chiến
đấu, giành thắng lợi, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; đưa giang sơn gấm vóc về
một mối; đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là thiên anh hùng ca vĩ đại
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, đại thắng mùa
Xuân 1975 là một trong những chiến công chói lọi nhất, đánh dấu bước ngoặt quyết định
đưa đất nước ta bước hẳn vào kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
22

3.7 Page 27

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
40 năm đã qua kể từ ngày Đại thắng mùa Xuân năm 1975, kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Trong bốn thập niên ấy có biết bao đổi
thay và biến động; nhân dân ta dưới sự lạnh đạo của Đảng đã tiến hành công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước và đã đạt được những thành quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Thời gian càng lùi xa và những sự kiện chính trị, quân sự trong nước và thế giới càng
làm chúng ta nhận thức sâu sắc hơn tầm vóc, giá trị, ý nghĩa của Đại thắng mùa Xuân năm
1975 đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều đó cho phép chúng ta lý giải vì
sao Việt Nam, một nước nhỏ, đất không rộng, người không đông, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu
đã đánh thắng đế quốc Mỹ, một cường quốc có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn nhất trong các
nước tư bản.
Lý luận và thực tiễn quân sự thế giới đều khẳng định rằng chúng ta đánh thắng đế
quốc Mỹ vì cuộc chiến tranh của nhân dân ta chính nghĩa, chống lại cuộc chiến tranh xâm
lược, phi nghĩa do đế quốc Mỹ thực hiện để giành và giữ vững độc lập dân tộc, quyền sống
làm người.
Cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân ta là một cuộc đấu tranh
giai cấp cực kỳ quyết liệt. Ta nêu cao ngọn cờ độc lập, tự do, ngọn cờ giải phóng dân tộc,
quyết chiến và quyết thắng đế quốc Mỹ không chỉ để hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ
nhân dân trong cả nước mà còn giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa hai thế lực cách mạng
và phản cách mạng, giữa một bên muốn biến miền Nam Việt Nam thành “sân sau của chủ
nghĩa tư bản,” đi theo con đường của chủ nghĩa tư bản với một bên là chúng ta, kiên quyết
đấu tranh để bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Cho nên cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là thắng lợi vẻ vang của
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 sáng ngời chính nghĩa của nhân dân ta, vừa mang tính chất
giải phóng dân tộc, vừa mang tính chất bảo vệ Tổ quốc. Do đó, tiến hành kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước là một cuộc chiến tranh cứu nước của cả dân tộc ta, không thể chia cắt, không
thể tách rời Nam Bắc.
Điều đó đã được nhân dân ta đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược nhằm một
mục tiêu chung là bảo vệ miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Biện chứng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước gần 21 năm do nhân dân ta
tiến hành biểu hiện ở chỗ có kiên quyết chiến đấu để giải phóng miền Nam mới bảo vệ được
miền Bắc và có bảo vệ vững chắc miền Bắc mới có điều kiện để giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất Tổ quốc.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là kết quả
sinh động của tình đoàn kết, của liên minh chiến đấu giữa Việt Nam, Lào và Campuchia.
Với bản chất, âm mưu xâm lược, với tham vọng độc chiếm bán đảo Đông Dương, đế quốc
Mỹ muốn xâm chiếm cả Việt Nam, Lào và Campuchia, dùng nước này để làm bàn đạp và
uy hiếp, xâm lược nước kia, biến Đông Dương thành một chiến trường, thị trường có lợi cho
Mỹ.
Hiểu rõ âm mưu thâm độc ấy, ba dân tộc láng giềng Việt Nam, Lào, Campuchia đã
đoàn kết chung một mục tiêu chiến đấu chống một kẻ thù chung là đế quốc Mỹ và tay sai.
23

3.8 Page 28

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Kể từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời và lãnh đạo cách mạng ba nước, mối
tình đoàn kết, gắn bó, tự nguyện liên minh với nhau hình thành mặt trận nhân dân Đông
Dương ngày càng vững chắc, kết thành một khối liên minh kháng chiến chống đế quốc xâm
lược. Đó là cội nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng vẻ vang của mỗi dân tộc Việt Nam,
Lào, Campuchia.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975, dấu mốc quan trọng đánh dấu sự kết thúc cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta mang tính chất và ý nghĩa thời đại sâu
sắc. Bởi lẽ, xâm lược nước ta, đế quốc Mỹ không chỉ nhằm đánh bại cách mạng Việt Nam,
sâu xa hơn nó còn có mục đích thí nghiệm, rút kinh nghiệm qua thử nghiệm để đối phó với
cách mạng thé giới, răn đe, ngăn chặn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Qua đó, tranh giành ảnh hưởng với các đế quốc khác trên các lục địa để thực hiện
mục tiêu chiến lược toàn cầu, tiến tới thống trị châu Âu và thế giới.
Vì vậy, Việt Nam đã trở thành trung tâm đối phó chiến lược toàn cầu của Mỹ. Điều
đó thể hiện rất rõ mỗi thất bại của Mỹ ở Việt Nam đã tác động, ảnh hưởng sâu sắc đến chiến
lược toàn cầu của Mỹ. Cho nên, đế quốc Mỹ không chỉ là kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta
mà còn là kẻ thù nguy hiểm của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Đứng lên kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, Việt Nam đã trở thành tuyến đầu của phong trào giải phóng dân tộc,
chống chủ nghĩa thực dân mới, bảo vệ hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Cho nên Đại
thắng mùa Xuân năm 1975 kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân ta đã
đánh thắng kẻ thù lớn nhất của thời đại, kẻ thù chung của cả loài người tiến bộ.
Vì lẽ đó, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, đặc biệt nhân dân các nước chủ
nghĩa xã hội anh em như Trung Quốc, Liên Xô và các nước khác đã ủng hộ nước ta cả về
vật chất và tinh thần.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kết
quả của “thiên thời, địa lợi, nhân hòa.”
Sự lãnh đạo của Đảng - Nhân tố quyết định làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975
Bao trùm lên tất cả là sức mạnh lãnh đạo tài tình, thao lược và sáng tạo của Đảng ta.
Đảng đã biết khai thác, khơi dậy mọi tiềm năng thế mạnh của nhân tố con người và kết hợp
chặt chẽ các nhân tố đó với nhau thành một tổng hợp lực nhằm cùng một hướng để tăng sức
mạnh lên gấp bội.
Đó là sức mạnh của bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam, sức mạnh của đường lối đúng đắn,
sáng tạo, sức mạnh của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, của việc kết hợp chặt chẽ lợi
ích cơ bản của nhân dân ta với những mục tiêu của thời đại; kết hợp cả đường lối cách mạng
và phương pháp cách mạng: sử dụng bạo lực cách mạng tổng hợp, kể cả lực lượng chính trị
quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân; tiến hành khởi nghĩa từng phần ở nông thôn và
từ khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh cách mạng; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu
tranh chính trị và ngoại giao; kết hợp giữa tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công’ đánh
địch cả trên ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn, đồng bằng thành thị; đánh địch bằng
ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận; kết hợp ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội
địa phương và dân quân du kích.
24

3.9 Page 29

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Đồng thời, Đảng biết tạo thời cơ và nắm vững thời cơ, biết mở những cuộc tiến công
chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện cuộc tổng tiến công và nổi
dậy đè bẹp quân địch và giành chiến thắng cuối cùng là Đại thắng mùa Xuân năm 1975, kết
thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta sau 21 năm dài đằng đẵng, thực
hiện thống nhất Tổ quốc, Nam Bắc xum họp một nhà, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Điều đấy khẳng định rằng nhân dân ta đánh thắng đế quốc Mỹ là vì chúng ta mạnh
hơn đế quốc Mỹ. Điều này đã được lý luận và thực tiễn quân sự thế giới khẳng định trong
chiến tranh, không bao giờ có chuyện may rủi, tình cờ. Bên thắng phải là bên mạnh hơn,
còn bên thua nhất định là yếu hơn.
Việc Mỹ phải quấn cờ về nước sau Hiệp định Paris được ký ngày 27/1/1973 và Đại
thắng mùa Xuân năm 1975 là minh chứng hùng hồn đầy thuyết phục, đã nói lên điều sâu sắc
ấy.
Trong quá khứ đã là như vậy thì trong hiện tại và tương lai, chắc chắn, dưới sự lãnh
đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, các thế hệ con cháu thời đại Hồ Chí Minh vẫn sẽ tiếp tục
sự nghiệp vẻ vang ấy.
Tôi tin là như vậy vì ngoài hạnh phúc của Nhân dân, Đảng ta không có lợi ích nào
khác. Tin yêu và đi theo Đảng, chúng ta không thể làm khác, dân tộc Việt Nam không thể
sống khác, dù thời cuộc có thay đổi, song phẩm chất nhân cách, văn hóa dân tộc của con
người Việt Nam không thể đổi thay. Hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh để dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam đã nói lên điều ấy.
7. Nguyễn Đình Tương. Đại thắng mùa Xuân 1975 - Bài học về sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng / Nguyễn Đình Tương, Hoàng Mạnh Anh5 // https://www.tuyengiao.vn. 2024.
Ngày 9 tháng 4.
(TG) - Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam
đã đi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc như một trong những trang sử chói lọi nhất, đi vào
lịch sử nhân loại như một trong những chiến công thần kỳ của cuộc đấu tranh chống áp bức
dân tộc của nhân dân toàn thế giới trong thế kỷ XX. Đặc biệt, đại thắng mùa Xuân 1975 đã
để lại nhiều bài học có ý nghĩa lịch sử.
Thắng lợi vĩ đại đó là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, từ sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng - đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại với đường lối chính trị, quân sự độc
lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện nước ta đến tinh thần chiến đấu, hy
sinh quả cảm, thông minh của toàn thể nhân dân ta mà nòng cốt là lực lượng vũ trang ba thứ
quân trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; tính ưu việt của
chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta; tình đoàn kết chiến đấu liên minh bền vững
của nhân dân 3 nước Đông Dương và sự ủng hộ mạnh mẽ, chân tình của nhân dân yêu
5 TS. NGUYỄN ĐÌNH TƯƠNG
Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn quân sự
HOÀNG MẠNH ANH
Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng
25

3.10 Page 30

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
chuộng hoà bình trên thế giới… Trong đó, “nhân tố quyết định thắng lợi quan trọng nhất là
sự lãnh đạo của Đảng”(1). Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên định vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, giá trị truyền thống dân tộc và kinh
nghiệm thực tiễn thế giới vào quá trình lãnh đạo, chỉ đạo trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước mà đỉnh cao là đại thắng mùa Xuân năm 1975. Đây là những bài học quý báu về sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong những giai đoạn quyết định của cách mạng.
Một là, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về bạo lực cách mạng và tư tưởng cách
mạng tiến công, kiên quyết, khôn khéo dùng bạo lực cách mạng để kết thúc chiến tranh.
Hiệp định Paris về “Chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam” ký ngày
27/1/1973 buộc đế quốc Mỹ phải đơn phương rút quân khỏi nước ta. Nhưng với bản chất
xâm lược, chúng tiếp tục tăng
cường viện trợ cho nguỵ quyền
nhằm kéo dài chiến tranh theo
kiểu “Việt Nam hoá”. Với ý đồ
thâm độc, đế quốc Mỹ đã ráo riết
thực hiện chủ trương “hiện đại
và tinh nhuệ hoá” nguỵ quân,
tăng cường chi viện quân sự
khối lượng lớn và xúi giục quân
nguỵ vi phạm Hiệp định Paris
một cách trắng trợn, gây cho
chúng ta rất nhiều khó khăn
trong thực thi Hiệp định và bảo
toàn vùng giải phóng. Bên cạnh
đó, một số cấp ủy, địa phương do biểu hiện mơ hồ, ảo tưởng, trông chờ “thiện chí” thi hành
Hiệp định Paris của phía đối phương, dẫn tới thiếu cảnh giác, để địch mở rộng lấn chiếm
nhiều vùng giải phóng. Để khắc phục tình hình, tháng 7/1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá III đã kịp thời ban hành Nghị quyết về “Thắng lợi vĩ đại
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt
Nam trong giai đoạn mới” (Nghị quyết 21). Nghị quyết khẳng định: “Con đường của cách
mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kỳ trong tình huống nào ta cũng phải
nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách
mạng miền Nam tiến lên”(2).
Quán triệt quan điểm của Đảng, Quân ủy Trung ương và các cấp uỷ Đảng ở miền
Nam đã nhất quán phương châm: “Con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo
lực cách mạng, tư tưởng chiến lược vẫn là tư tưởng tiến công, tuyệt đối không thể mơ hồ, ảo
tưởng. Phương hướng hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là phải ra sức nhanh
chóng tạo thế mới, quyết tiến lên giành thắng lợi cuối cùng, giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước”(3).
Với nhận thức đúng âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, với ý chí và khát vọng độc lập dân
tộc, thống nhất Tổ quốc, với quyết tâm “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, Nghị quyết
26

4 Pages 31-40

▲back to top

4.1 Page 31

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
21 của Ban Chấp hành Trung ương khóa III đã chỉ ra cho cách mạng miền Nam một hướng
đi chính xác, tạo cơ sở lý luận, thực tiễn cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975
đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Hai là, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về đánh giá, so sánh lực lượng đúng đắn,
hạ quyết tâm chiến lược chính
xác, kịp thời.
Dưới ánh sáng của Nghị
quyết 21, sự chỉ đạo sáng suốt,
kịp thời của Bộ Chính trị và
Quân ủy Trung ương, quân và
dân ta ở miền Nam đã có nhiều
hoạt động quân sự, chính trị
nhằm chống địch phá hoại Hiệp
định Paris đã phát triển lên đỉnh
cao và thu được nhiều thắng lợi.
Mặc dù đế quốc Mỹ vẫn ngoan
cố “dính líu” về quân sự ở miền
Nam, chỉ huy quân nguỵ Sài Gòn
tiếp tục thực hiện các hoạt động phá hoại, xâm lấn các vùng giải phóng, nhưng không còn
khả năng đưa quân trở lại Việt Nam. Mỹ rút, nội bộ chính quyền ngụy ngày càng rối ren, lực
lượng ngụy quân ngày càng bộc lộ những điểm yếu. Từ năm 1974, quân nguỵ cơ bản phải
lui về giữ các đô thị, các đường giao thông và những vùng có ý nghĩa chiến lược. Chúng
không thể đương đầu nổi với lực lượng ta đã mạnh hẳn lên cả về chính trị và quân sự. Quân
và dân ta đã đánh cho “Mỹ cút” thì cũng có đầy đủ cơ sở và điều kiện để đánh cho “nguỵ
nhào”.
Từ ngày 30/9 đến 8/10/1974, Hội nghị Bộ Chính trị khoá III và Quân uỷ Trung ương
họp, đã đánh giá: bước ngoặt căn bản trong so sánh lực lượng giữa ta và địch đã hoàn toàn
có lợi cho ta. Ta đã thúc đẩy thời cơ chiến lược chín muồi, đã tạo nên yếu tố chiến lược
quan trọng để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Trên cơ sở đó Hội nghị “hạ quyết tâm lịch
sử hoàn thành giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975-1976… nhất trí duyệt kế hoạch chiến
lược cơ bản dự thảo lần thứ VII do Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị”(4) và nhấn mạnh: “thực
hiện kế hoạch cơ bản năm 1975-1976 nhưng phải ra sức chuẩn bị về mọi mặt để khi thời cơ
lịch sử đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức tập trung lực lượng của cả nước giải
phóng miền Nam ngay trong năm 1975”(5). Trước diễn biến mau lẹ của tình hình chiến
trường miền Nam, Hội nghị Bộ Chính trị cuối tháng 12/1974 đã bổ sung và hoàn chỉnh
quyết tâm chiến lược, kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Với quyết tâm chiến lược đúng đắn, chính xác, kịp thời, việc tổ chức thực hiện chiến
lược của ta ngay từ đầu đã ở thế chủ động, nên có điều kiện đánh địch theo ý ta, làm xuất
hiện thời cơ và nhanh chóng chớp thời cơ chiến lược, dấn lên đánh đòn quyết định để giành
thắng lợi hoàn toàn.
27

4.2 Page 32

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Ba là, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về chủ động chuẩn bị lực lượng mạnh, xây
dựng thế trận, tạo và chớp thời cơ, kiên quyết tiến lên giành thắng lợi trong thời gian
ngắn nhất.
Trên cơ sở nắm vững quy luật “mạnh được, yếu thua” của chiến tranh, với quyết tâm
chiến lược đã xác định, Đảng đã lãnh đạo Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh chủ động
chuẩn bị lực lượng mạnh, bí mật triển khai thế trận hiểm và bất ngờ, buộc địch mắc mưu,
phải bị động đối phó. Từ sự bị động đối phó, chúng dẫn tới liên tiếp mắc sai lầm về chiến
dịch, chiến lược, làm xuất hiện thời cơ có lợi cho ta. Ta nhanh chóng chớp thời cơ có lợi,
tập trung sức đánh mạnh địch, đẩy chúng vào thế tuyệt vọng, buộc phải đầu hàng vô điều
kiện, ta giành thắng lợi sớm hơn dự kiến.
Để thực hiện chiến lược đã đề ra và sẵn sàng đón thời cơ, chuẩn bị cho các đòn tác
chiến chiến dịch quy mô lớn, từ tháng 10/1973, Đảng ta đã có chủ trương cho thành lập các
binh đoàn cơ động chiến lược mạnh để tạo khả năng đánh các đòn quyết định chiến trường.
Tháng 3/1975, ta đã thành lập các Quân đoàn 1, 2, 3, 4 và Đoàn 232 (tương đương quân
đoàn) có sức cơ động mạnh để đánh địch trong các trận quyết chiến chiến lược.
Song song với chuẩn bị lực lượng mạnh, Bộ Chính trị đã chỉ thị cho Quân ủy, Bộ
Tổng tham mưu chủ động chuẩn bị thế trận và chiến trường theo hướng tạo thế hiểm và bí
mật, bất ngờ để chủ động đánh địch. Theo đó, Bộ Chính trị chỉ đạo chọn Tây Nguyên là
chiến trường mở màn trọng điểm với hướng tiến công chiến lược từ phía Nam đánh lên,
miền Đông Nam Bộ là hướng quyết định cuối cùng. Với cách đánh chiến lược, chiến dịch là
kết hợp ba đòn mạnh (chủ lực, nông thôn, đô thị) và bằng 3 mũi giáp công trên cả ba vùng
chiến lược, trong đó các trận đánh của các binh đoàn chủ lực cơ động mạnh là những đòn
quyết định.
Đúng như dự kiến của Đảng, trận mở màn ở Nam Tây Nguyên diễn ra từ ngày 4 đến
ngày 24/3/1975 đã giành thắng lợi giòn giã, quân địch hoàn toàn bị bất ngờ, lúng túng cả về
chiến lược, chiến dịch và chiến thuật, tạo ra sự chấn động mạnh và phá vỡ một mảng lớn
quân địch, buộc chúng phải đảo lộn thế bố trí chiến dịch và chiến lược, tác động dây truyền
đến toàn bộ chiến trường, đẩy chúng đến chỗ cùng quẫn, hoảng loạn. Chớp thời cơ chiến
dịch, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương kịp thời chỉ đạo quân và dân ta ở miền Nam mở
chiến dịch Huế - Đà Nẵng, chỉ đạo Quân khu 5 kết hợp với Bộ tư lệnh Hải quân mở chiến
dịch giải phóng các đảo do quân nguỵ Sài Gòn đóng giữ.
Ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị họp và nhận định: “Thời cơ chiến lược tiến hành tổng
công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã chín muồi. Cần có sự quyết tâm lớn
hoàn thành trận quyết định chiến lược cuối cùng tốt nhất trong tháng 4/1975”. Trong bối
cảnh ấy, đầu tháng 4/1975, Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ Tư lệnh chỉ huy Chiến
dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Đảng luôn nắm chắc tình hình chiến trường, lãnh đạo
chỉ đạo kịp thời, linh hoạt các lực lượng thừa thắng xông lên, với tinh thần “một ngày bằng
20 năm”, với ý chí và quyết tâm “thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa.
Tranh thủ thời gian, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến, quyết
thắng”, bộ đội và nhân dân ta trên khắp các chiến trường đã dũng mãnh xông lên với tinh
thần “tất cả cho thắng lợi”.
28

4.3 Page 33

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Sau 55 ngày đêm tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, thần tốc truy đuổi quân
địch đến tận sào huyệt cuối cùng, bằng trận quyết chiến chiến lược lịch sử - chiến dịch Hồ
Chí Minh, Sài Gòn - Gia Định được hoàn toàn giải phóng, 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975 lá
cờ cách mạng của quân và dân ta tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, đánh dấu sự thất bại
hoàn toàn của bè lũ bán nước và xâm lược.
Bốn là, lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của chiến
tranh nhân dân để giành thắng lợi trọn vẹn.
Thành công nổi bật khác về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ta trong đại thắng mùa
Xuân 1975 là đã tạo ra và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh tổng hợp của chiến tranh
nhân dân, chiến tranh cách mạng để giành thắng lợi trọn vẹn, không để xảy ra đổ vỡ nghiêm
trọng. Đảng chỉ đạo lấy tiến công quân sự của các binh đoàn cơ động chiến lược mạnh làm
“đòn cân não”, kết hợp chặt chẽ với sự nổi dậy của quần chúng đấu tranh chính trị và binh
vận, làm tan rã nhiều bộ phận quân địch, giải phóng từng địa bàn chiến lược rộng lớn, tiến
tới tổng công kích, tổng nổi dậy để giành quyền làm chủ và giành thắng lợi hoàn toàn.
Đảng ta nắm vững quy luật chiến tranh, quy luật phát huy sức mạnh tổng hợp và quy
luật “quyết định chiến trường là lực lượng vũ trang”, tin tưởng vào sức mạnh của quần
chúng nhân dân, vận dụng sáng tạo quy luật chiến tranh và quy luật khởi nghĩa vũ trang.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã thể hiện tinh thần quật khởi của cả dân tộc Việt
Nam khi tiến hành một cuộc “trường chinh” vĩ đại với ý chí thép, chấp nhận hy sinh tất cả
để đổi lấy hòa bình, non sông thu về một mối, hoàn thành khúc khải hoàn ca “to lớn nhất,
toàn diện nhất, triệt để nhất, trọn vẹn nhất”.
Cùng với sử dụng sức mạnh quân sự của các binh đoàn chủ lực để làm tan rã hệ
thống phòng thủ của địch và lực lượng ngụy quân, ngụy quyền, Đảng đã chỉ đạo kết hợp
chặt chẽ tiến công quân sự với phát động quần chúng nhân dân nổi dậy làm chủ địa bàn,
tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn và rộng khắp.
Năm là, Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo vận dụng sáng tạo, tài tình nghệ thuật quân sự
Việt Nam.
Vận dụng sáng tạo và tài tình nghệ thuật quân sự dân tộc đã là một tài sản và truyền
thống quý báu của Đảng ta. Song, trong đại thắng mùa Xuân 1975, sự vận dụng đó đã phát
triển thành một đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Đảng đã xác định phương hướng và mục tiêu tiến công đúng đắn, lựa chọn thời cơ tiến công
thích hợp, cơ động và tập trung lực lượng kịp thời, đề ra hình thức tác chiến có hiệu lực lớn
nhất, tạo bất ngờ và triệt để lợi dụng và khoét sâu sai lầm của địch, buộc chúng phải bị
động, bất ngờ đối phó. Ta chớp thời cơ thuận lợi, kiên quyết và thần tốc tấn công, chỉ huy
chủ động, táo bạo, linh hoạt để liên tiếp tiêu diệt, phá tan hệ thống phòng ngự và các tập
đoàn quân địch, làm tan rã nhiều lực lượng, tiến tới đập tan chế độ ngụy quyền được sự bảo
trợ của Mỹ.
29

4.4 Page 34

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước trên lễ đài tại Lễ mít tinh mừng
Việt Nam đại thắng, ngày 15/5/1975 (Nguồn: baotanglichsu.vn)
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nghệ thuật quân sự Việt Nam đã phát triển lên tầm cao
mới trong thời đại mới, nên đã tạo được sức mạnh áp đảo quân địch, luôn đánh địch ở thế
mạnh và đánh tiêu diệt gọn, khiến địch phải bất ngờ và liên tục thất bại, tan rã. Đồng thời,
làm cho nhân tố chính trị, tinh thần của bộ đội và nhân dân càng được tăng lên; cán bộ,
chiến sĩ ta càng xốc tới mãnh liệt hơn, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt nam được tỏa
sáng trong thời đại Hồ Chí Minh để đưa đất nước đến ngày toàn thắng.
Đại thắng mùa Xuân 1975 chính là “cột mốc vàng” của lịch sử dân tộc, khẳng định
đường lối lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta trong “cuộc đụng đầu lịch sử”
chống đế quốc Mỹ xâm lược. “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong
sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như
một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi sâu vào lịch sử thế giới như một chiến
công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại
sâu sắc”(7).
49 năm đã trôi qua, tầm vóc, ý nghĩa và những bài học lịch sử của đại thắng mùa
Xuân năm 1975 ngày càng được khẳng định và nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn. Những bài
học ấy sẽ còn có giá trị lâu dài đối với với sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2004, t.37,
tr.983
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.34, tr.232.
30

4.5 Page 35

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
(3) (4) (6) Tổng cục Chính trị: Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân
Việt Nam 1944-2000, Nxb. Quân đội nhân dân, H, 2002, tr.554-555, 571, 592.
(5) Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - những sự kiện quân sự, Nxb. Quân đội nhân
dân, H, 1980, tr.281.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội lần thứ IV của Đảng, Nxb. Sự thật, H. 1977, tr.5-6.
8. Nguyễn Hồng Quân. Chiến lược quân sự đúng đắn của Đảng - hạt nhân cốt lõi
trong đại thắng mùa Xuân 1975 / Nguyễn Hồng Quân6 // https://www.qdnd.vn. 2022.
Ngày 30 tháng 4.
Đại thắng mùa Xuân 1975 là kết quả sự hội tụ hợp quy luật của toàn bộ tiến trình
chiến tranh nhân dân giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời cũng là kết
quả quá trình phát triển các nhân tố hợp thành tiến trình đó.
Đối với một dân tộc nhỏ, với trang
bị vũ khí kỹ thuật còn hạn chế, để chống lại
đối thủ có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh,
không thể chỉ bằng sự hy sinh, lòng dũng
cảm, mà phải bằng trí tuệ và tài thao lược;
phải biết thắng địch từng bước vừa với khả
năng và sức lực của mình. Từ quan điểm
tiến hành chiến tranh nhân dân, chiến lược
quân sự cách mạng của Đảng ta đều nhằm
thực hiện mục tiêu cách mạng đã đề ra, với
những phương thức thực hiện đa dạng,
ngày càng phát triển lên trình độ cao hơn. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các hình
thức đấu tranh với các loại hình tác chiến; phối hợp giữa các vùng chiến lược; giữa các mũi
tiến công; giữa tác chiến chiến lược, chiến dịch, chiến thuật của ba thứ quân; kết hợp nhuần
nhuyễn giữa tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công; là nghệ thuật quân sự “tạo thế”,
“tranh thời” và “chuyển lực”.
Sự chủ động chiến lược của Đảng trong chỉ đạo chiến tranh nhân dân giải phóng đã
được thể hiện rõ trong giai đoạn chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Trong mấy tháng đầu sau khi ký Hiệp định Paris (27-1-1973), ta
đã nhanh chóng chuyển thế chiến lược trên tất cả các chiến trường ở miền Nam. Đặc biệt,
việc chuẩn bị lực lượng vũ trang cách mạng, hình thành các quân đoàn chủ lực thể hiện rõ
sự chủ động chiến lược của ta.
Nét nổi bật trong chiến lược quân sự cách mạng của Đảng ta là vận dụng sáng tạo
phương pháp tiến công chiến lược, chỉ đạo phối hợp chặt chẽ giữa các chiến trường, phối
hợp chặt chẽ giữa tiến công và nổi dậy. Từ tiến công giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên, ta
nắm bắt được thời cơ, tiếp tục triển khai Chiến dịch Huế-Đà Nẵng và liên tục tiến công để
bảo đảm chắc thắng cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.
6 Thiếu tướng, GS, TS Nguyễn Hồng Quân, Nguyên Phó viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng
31

4.6 Page 36

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Ta chủ động tiến công đồng loạt, khi Chiến dịch Tây Nguyên mở màn thì các chiến
trường khác đẩy mạnh tác chiến phối hợp, không cho địch ứng cứu, và khi Chiến dịch Tây
Nguyên thắng lớn, các chiến trường kịp chuyển sang chuẩn bị toàn diện cho tổng tiến công
và nổi dậy... làm cho sức mạnh tiến công của ta được phát huy cao độ, đồng thời dồn đối
phương vào thế hoàn toàn bất ngờ, bị động, chống đỡ và nhanh chóng đi đến thất bại.
Phương thức tác chiến cũng được phát triển vượt bậc trong cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy năm 1975. Thời kỳ đầu, ta vận dụng kinh nghiệm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu
tranh chính trị và binh vận, đồng thời phát triển mới về nghệ thuật quân sự, đặc biệt, chuyển
từ đồng khởi sang chiến tranh cách mạng; từ đấu tranh chính trị sang kết hợp với đấu tranh
vũ trang, dùng sức mạnh tổng hợp để tiến công địch, thúc đẩy chiến tranh nhân dân phát
triển lên trình độ mới.
Từ ngày 18-12-1974 đến
ngày 8-1-1975, Bộ Chính trị họp
hội nghị mở rộng, kết luận: “Chúng
ta đang đứng trước thời cơ chiến
lược lớn, chưa bao giờ ta có đầy đủ
điều kiện về quân sự và chính trị
như hiện nay, có thời cơ chiến lược
to lớn như hiện nay để hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam, tiến tới hòa bình
thống nhất Tổ quốc”.
Toàn bộ tiến trình phát triển
phương thức tác chiến chiến lược của chiến tranh nhân dân giải phóng được hội tụ chín
muồi trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy này. Đó chính là tạo, nắm bắt, tận dụng thời cơ;
đẩy nhanh tổng tiến công với tốc độ cao chưa từng có, giảm thương vong; giữ được nhiều
thị xã, thành phố nguyên vẹn, giành thắng lợi lớn nhất trong thời gian ngắn nhất, vượt kế
hoạch dự định giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc toàn thắng trong thời gian gần hai
tháng.
Đó chính là tạo ưu thế lực lượng, bảo đảm đánh địch trên thế mạnh, hình thành sức
mạnh áp đảo trong chiến dịch. Khi địch còn ổn định, ta đánh có chuẩn bị, đánh chắc thắng
như trong Chiến dịch Tây Nguyên. Khi địch hoang mang rút chạy, ta chớp thời cơ, đánh
địch trong hành tiến như Chiến dịch Huế-Đà Nẵng. Khi đánh vào sào huyệt cuối cùng của
địch, ta tập trung lực lượng đến mức cao nhất với khí thế “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc
thắng”.
Đại thắng mùa Xuân 1975 là thành quả tất yếu, là sự hội tụ chín muồi của nghệ thuật
chiến dịch quân sự Việt Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 tiến hành
các chiến dịch quy mô lớn, diễn ra ở cả vùng rừng núi, đồng bằng, nông thôn, lẫn đô thị, với
không gian rộng lớn, thời gian và diễn tiến chiến dịch nhanh chóng. Đảng ta đã trực tiếp chỉ
đạo, chọn hướng tiến công chiến lược đúng, xác định cách đánh đúng, nắm bắt nhanh diễn
biến chiến trường và nhạy bén trước mọi động thái, tình huống, liên tục bổ sung quyết tâm
32

4.7 Page 37

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
chiến lược với nhịp độ phát triển cực nhanh của toàn bộ chiến trường, đồng thời bảo đảm
bất ngờ, táo bạo.
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã kết thúc vẻ vang
30 năm đấu tranh kiên cường của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thắng lợi
đó chứng minh đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn; sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chính xác, kịp thời, kiên quyết, táo
bạo và sắc bén. Đại thắng mùa Xuân 1975 là đại thắng của chính nghĩa, của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc; đại thắng của sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, trong đó
chiến lược quân sự cách mạng đúng đắn của Đảng là hạt nhân cốt lõi. Đây là thắng lợi của
trí tuệ và ý chí Việt Nam, của năng lực tổ chức toàn dân đánh giặc và trình độ làm chủ trang
bị vũ khí kỹ thuật hiện đại.
Bài học của chiến tranh nhân dân đã chỉ rõ các nhân tố quyết định thắng lợi của chiến
tranh, như tính chính nghĩa; sức sống của chế độ chính trị-xã hội thể hiện ở con người giác
ngộ chính trị cao, có tinh thần yêu nước, gắn bó với chế độ và nền văn hóa dân tộc. Ban
lãnh đạo tối cao của đất nước hội tụ trí tuệ của dân tộc, ngang tầm thời đại, huy động được
sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc; quân đội nhân dân kiên cường, mưu trí và sáng tạo, làm
chủ vũ khí trang bị, lại được bạn bè quốc tế ủng hộ rộng rãi. Một chiến lược quân sự cách
mạng hội tụ được tất thảy các yếu tố “nhân hòa” ấy thì không có lý do gì không dẫn đến
thành công.
9. Nguyễn Tân Cương. Thắng lợi trên hướng Đông Nam trong Chiến dịch Hồ Chí
Minh - Bài học đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay / Nguyễn Tân
Cương7 // https://www.qdnd.vn. 2021. Ngày 28 tháng 4.
Từ ngày 26 đến 30-4-1975, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị
(BCT) Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quân và dân ta tổ chức thực hiện thành công
Chiến dịch Hồ Chí Minh-trận quyết chiến chiến lược cuối cùng tiến công vào sào huyệt địch
tại Sài Gòn-Gia Định, đập tan chính quyền, quân đội tay sai, giải phóng miền Nam, kết thúc
thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trong chiến công vang dội đó, cánh quân hướng Đông Nam đã hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến dịch.
Đến tháng 4-1975, cục diện chiến trường miền Nam có sự chuyển biến hết sức mau
lẹ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng. Sau hơn một tháng liên tục tiến công, nổi
dậy mạnh mẽ, quân và dân ta giành thắng lợi to lớn trong các đòn chiến lược Tây Nguyên,
Huế-Đà Nẵng; tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng của hai trên tổng số 4 quân khu-
quân đoàn địch; chiếm giữ một khối lượng lớn vật chất, phương tiện chiến tranh; giải phóng
hơn nửa đất đai và gần nửa dân số miền Nam. Lực lượng vũ trang (LLVT) cách mạng
trưởng thành nhanh chóng. Về phía địch, do chịu thất bại nặng nề, lâm vào tình thế khủng
hoảng, khó khăn nghiêm trọng, chúng buộc phải lùi về phòng thủ từ thị xã Phan Rang (Ninh
Thuận) trở vào Nam, kêu gọi Mỹ viện trợ khẩn cấp. Trước diễn biến tình hình phát triển
7 Thượng tướng NGUYỄN TÂN CƯƠNG, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
33

4.8 Page 38

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
thuận lợi, trong hai ngày 31-3 và 1-4-1975, BCT họp bàn, bổ sung quyết tâm chiến lược,
khẳng định: “Thời cơ để mở tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn-Gia Định đã chín muồi
(...). Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi
dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt
đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm”8. Riêng hướng Đông và Đông Nam
Sài Gòn-Gia Định, BCT đề ra yêu cầu cụ thể trước mắt: Cần nhanh chóng tập trung lực
lượng đánh chiếm những mục tiêu quan trọng, thực hiện bao vây, cô lập hoàn toàn Sài Gòn
từ phía Long Khánh, Bà Rịa-Vũng Tàu. Ngày 8-4-1975, BCT và Quân ủy Trung ương
(QUTW) quyết định thành lập Bộ chỉ huy (BCH) Chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định
do đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng-Ủy viên BCT, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội
nhân dân Việt Nam làm Tư lệnh; đồng chí Phạm Hùng-Ủy viên BCT, Bí thư Trung ương
Cục miền Nam làm Chính ủy. Ngày 14-4-1975, thể theo nguyện vọng của đồng bào, chiến
sĩ cả nước, BCT đồng ý Chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định lấy tên là Chiến dịch Hồ
Chí Minh. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm 4 quân đoàn (1, 2, 3, 4) và Đoàn 232 (tương
đương quân đoàn) cùng các LLVT, nhân dân địa phương trên địa bàn.
Theo kế hoạch tác chiến được BCH chiến dịch thông qua lần cuối (ngày 22-4-1975),
đại quân ta nhanh chóng cơ động, hình thành thế bao vây tiến công Sài Gòn từ 5 hướng:
Hướng Tây Bắc-Quân đoàn 3; hướng Bắc-Quân đoàn 1; hướng Đông Nam-Quân đoàn 2;
hướng Đông-Quân đoàn 4; hướng Tây và Tây Nam-Đoàn 232 và Sư đoàn 8 (Quân khu 8).
Về cách đánh: Dùng một bộ phận lực lượng thích hợp tiêu diệt, làm tan rã tại chỗ các sư
đoàn bộ binh chủ lực của địch phòng thủ vòng ngoài, không cho chúng rút chạy về Sài Gòn;
sử dụng đại bộ phận lực lượng nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các địa bàn then chốt ở
8 Đảng Cng sn Vit Nam, Văn kin Đảng toàn tp, tp 36, Nxb CTQG, H, 2004, tr.95 - 96
34

4.9 Page 39

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
vùng ven, mở đường cho các binh đoàn đột kích theo các trục đường lớn, đánh thẳng vào 5
mục tiêu trong nội thành (bộ tổng tham mưu ngụy, sân bay Tân Sơn Nhất, dinh Độc Lập, bộ
tư lệnh biệt khu thủ đô, tổng nha cảnh sát).
Trên hướng Đông Nam, Quân đoàn 2, gồm Sư đoàn 304, Sư đoàn 325, được phối
thuộc Sư đoàn 3 (Quân khu 5) phối hợp với đặc công vùng ven (Trung đoàn 116) và quân,
dân thị xã Vũng Tàu có nhiệm vụ: “Tiêu diệt quân địch, đánh chiếm căn cứ Nước Trong, chi
khu Long Bình, căn cứ Long Bình, chi khu Nhơn Trạch, thành Tuy Hạ-bến phà Cát Lái,
đánh chiếm chi khu Đức Thạnh, thị xã Bà Rịa, đặt pháo ở Nhơn Trạch bắn vào Tân Sơn
Nhất. Đánh chiếm Vũng Tàu phát triển sang Cần Giờ, tiêu diệt địch ở hữu ngạn sông Đồng
Nai, đánh chiếm các quận 9, 4 (Sài Gòn) có mũi phối hợp với hướng bạn đánh chiếm dinh
Độc Lập. Sau đó tùy tình hình có thể tiếp tục phát triển tiến công xuống vùng Đồng bằng
sông Cửu Long khi có lệnh”9.
Thực hiện quyết tâm của BCT và BCH Chiến dịch Hồ Chí Minh, từ giữa tháng 4-
1975, quân và dân ta đẩy mạnh tiến công địch trên toàn chiến trường nhằm tạo thế, tạo lực
cho đại quân nhanh chóng cơ động hướng về Sài Gòn-Gia Định. Đặc biệt, từ ngày 9 đến 21-
4-1975, Quân đoàn 4 tổ chức thực hiện thành công Chiến dịch giải phóng Xuân Lộc, “mở
toang” cánh cửa hướng Đông, tạo thuận lợi cho Quân đoàn 2 (cánh quân Duyên Hải) cơ
động vào đứng chân, thực hiện nhiệm vụ
trên hướng Đông Nam.
Ngay sau khi vào vị trí tập kết,
Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 họp
quán triệt nhiệm vụ, xây dựng kế hoạch tác
chiến. Về địa hình, hướng Đông Nam Sài
Gòn là khu vực tương đối phức tạp, bị chia
cắt bởi những đồng lầy cùng hệ thống sông
ngòi khá dày (có hai sông lớn là sông
Đồng Nai, sông Lòng Tàu). Trên hướng
tiến công của Quân đoàn 2, chỉ có 2 đường
chính dẫn vào nội đô Sài Gòn: Xa lộ Sài Gòn-Biên Hòa và Long Thành-Nhơn Trạch-thành
Tuy Hạ-Sài Gòn; trên mỗi đường có nhiều cầu cống. Ở hướng Bà Rịa-Vũng Tàu chỉ có
Đường 15, từ Bà Rịa xuống Vũng Tàu phải qua cầu Cỏ May. Trong quá trình chiến đấu, nếu
ta không tranh thủ thời gian đánh nhanh, để địch phá hoại cầu đường, dựa vào các chướng
ngại thiên nhiên chống trả thì sẽ gặp nhiều khó khăn. Về dân cư, ngay từ khi mới xâm lược
miền Nam, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai đã thực hiện dồn dân về địa bàn này lập
thành vành đai, nhất là trên các trục đường chính. Trước sự an nguy của chế độ, địch dồn
quân về bảo vệ thủ phủ Sài Gòn-Gia Định. Riêng hướng Đông Nam, địch bố trí lực lượng
phòng ngự mạnh, gồm lữ đoàn 468 lính thủy đánh bộ, lữ đoàn 1 và 4, liên đoàn 33 biệt động
quân, 18 tiểu đoàn bảo an, 4 thiết đoàn xe tăng và xe bọc thép, 62 khẩu pháo lớn các loại.
9 Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch Hồ Chí Minh (Xuân 1975), H, 1991,
tr.20.
35

4.10 Page 40

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Ngoài ra, còn có hàng chục nghìn học viên sĩ quan, hạ sĩ quan của trường huấn luyện thiết
giáp, trường huấn luyện bộ binh, trường biệt kích (ở Nước Trong), trường cảnh sát quốc gia
và các trung tâm huấn luyện (Thủ Đức, Long Thành, Vạn Kiếp - Bà Rịa, Vũng Tàu). Với
lực lượng trên, địch bố trí phòng ngự thành 3 tuyến: Tuyến vòng ngoài, từ phía đông Biên
Hòa theo Đường 1 đến Trảng Bom và từ căn cứ Long Bình theo Đường 15 qua Long Thành
đến Vũng Tàu. Đây là tuyến phòng ngự mạnh nhất, được xây dựng thành từng cụm dựa vào
các căn cứ lớn, có công sự vững chắc. Tuyến thứ hai là tuyến trung gian, từ Thủ Đức đến
bến phà Cát Lái, do quân địa phương đảm nhiệm. Tuyến thứ ba là tuyến trong cùng, do lực
lượng địa phương và lực lượng của biệt khu thủ đô đảm nhiệm.
Căn cứ nhiệm vụ được giao, điều kiện địa hình, dân cư và thế bố trí lực lượng phòng
ngự của địch, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 hạ quyết tâm: Tập trung lực lượng thực
hành đột phá trên hướng chủ yếu từ điểm cao 43 (bắc trường huấn luyện bộ binh) đến ngã
ba Phước Lộc (nam thị trấn Long Thành) theo Đường 15, ngã ba Long Bình, cầu Xa Lộ vào
Sài Gòn. Mũi đột kích chủ yếu đánh vào căn cứ Nước Trong, Long Bình, cầu Xa Lộ do Sư
đoàn 304 đảm nhiệm. Mũi đột kích quan trọng đánh vào chi khu Long Thành, chi khu Nhơn
Trạch, thành Tuy Hạ, Cát Lái do Sư đoàn 325 đảm nhiệm. Hướng thứ hai là Sư đoàn 3
(Quân khu 5) đột phá chi khu Đức Thạnh, thị xã Bà Rịa, thị xã Vũng Tàu. Về cách đánh: Tổ
chức mũi đột kích mạnh chọc thủng tuyến phòng ngự của địch ở những nơi yếu và hiểm
yếu; kết hợp đột phá chính diện với bao vây vu hồi, chia cắt, không cho địch rút chạy cả
đường bộ, đường không, đường biển. Khi địch tan vỡ thì nhanh chóng sử dụng cơ giới phát
triển thọc sâu. Tư tưởng chỉ đạo tác chiến là “mạnh, nhanh, chắc”. Phương châm hành động:
“Táo bạo, mạnh dạn, chủ động, kịp thời”. Nhờ có sự chỉ huy tập trung thống nhất, sự phối
hợp hiệp đồng chặt chẽ giữa các đơn vị trong quân đoàn cũng như với các đơn vị bạn, cùng
sự giúp đỡ của LLVT và nhân dân địa phương, nên chỉ thời gian ngắn (từ ngày 21 đến 25-4-
1975), mọi công tác chuẩn bị tác chiến được gấp rút hoàn thành.
17 giờ ngày 26-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Tất cả 5 cánh quân của ta
từ các hướng dội bão lửa vào tuyến phòng ngự vòng ngoài của địch. Tại hướng Đông Nam,
pháo binh của Quân đoàn 2 dồn dập trút đạn vào các mục tiêu, tạo điều kiện cho bộ binh và
xe tăng khẩn trương vận động chiếm lĩnh bàn đạp chuẩn bị xung phong. Trên các mũi tiến
công chính diện, ngay trong đêm 26-4, Sư đoàn 304 nhanh chóng chiếm được trường huấn
luyện thiết giáp. Địch co cụm về trường huấn luyện bộ binh, trường biệt kích chống cự
quyết liệt và điều thêm lực lượng từ Biên Hòa lên phản kích liên tục trong hai ngày 27 và
28-4, gây cho ta nhiều khó khăn. Cùng thời gian này, Sư đoàn 325 đánh chiếm ngã ba
Đường 15, chi khu Long Thành... Trên hướng Sư đoàn 3, ta đánh chiếm Đức Thạnh, Bà
Rịa; địch phá cầu Cỏ May ngăn chặn quân ta tiến ra thị xã Vũng Tàu. Đến tối 28-4, trên cơ
sở đánh giá tình hình chung cơ bản thuận lợi, BCH Chiến dịch Hồ Chí Minh lệnh cho các
hướng tiếp tục phát triển tiến công, bảo đảm sáng 29-4, toàn mặt trận nhất loạt tổng tiến
công vào nội đô thành phố Sài Gòn.
Chấp hành mệnh lệnh, ở hướng Đông Nam, tối 28 và ngày 29-4, Sư đoàn 304 lần
lượt đánh chiếm trường huấn luyện bộ binh, căn cứ Nước Trong, căn cứ Long Bình. Sư
đoàn 325 tiến công làm chủ chi khu Nhơn Trạch, thành Tuy Hạ, áp sát Cát Lái. Sư đoàn 3
36

5 Pages 41-50

▲back to top

5.1 Page 41

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
tiến công giải phóng Vũng Tàu. Từ 15 giờ ngày 29-4, lực lượng thọc sâu của Quân đoàn 2
(gồm Lữ đoàn Tăng thiết giáp 203 và Trung đoàn Bộ binh 66) được lệnh xuất phát, đến 24
giờ bắt liên lạc được với Đoàn Đặc công 116 tại cầu Đồng Nai, sẵn sàng đột phá vào nội đô.
Sáng 30-4, các cánh quân của ta được lệnh tổng công kích vào nội đô thành phố Sài
Gòn. Lực lượng thọc sâu của Quân đoàn 2 phối hợp chặt chẽ với Đoàn Đặc công 116 và lực
lượng biệt động thành đập tan các chốt chặn của địch, tiến vào đánh chiếm Dinh Độc Lập,
bắt toàn bộ nội các chính quyền địch, buộc chúng phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. 11
giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, đánh dấu thời
điểm Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Phát huy thắng lợi, các tỉnh còn lại của Nam Bộ
nhất tề đứng lên tiến công nổi dậy theo phương thức “xã giải phóng xã, huyện giải phóng
huyện, tỉnh giải phóng tỉnh”. Đến ngày 2-5-1975, miền Nam nước ta hoàn toàn giải phóng.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi hoàn toàn.
Trải qua 5 ngày tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân và dân ta trên hướng
Đông Nam, trong đó Quân đoàn 2 là lực lượng giữ vai trò nòng cốt, đã anh dũng chiến đấu
“hoàn thành nhiệm vụ một cách đặc biệt xuất sắc!” (lời Đại tướng Văn Tiến Dũng). Kết
quả, ta tiêu diệt, bắt sống, gọi ra trình diện hơn 20.000 tên địch; tiêu diệt, làm tan rã 4 thiết
đoàn xe tăng, xe bọc thép, 4 liên giang đoàn chiến đấu; bắn rơi, bắn cháy 23 máy bay; thu
giữ, phá hủy hàng trăm khẩu pháo cùng nhiều kho tàng, phương tiện chiến tranh khác của
địch10. Lực lượng tiến công trên hướng Đông Nam đã vinh dự đánh chiếm Dinh Độc Lập-
đầu não của chính quyền địch.
46 năm đã trôi qua, nhìn lại chiến công oanh liệt của cánh quân hướng Đông Nam
trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, có thể rút ra một số bài học quý đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay:
Một là, chấp hành nghiêm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, có sự vận dụng linh
hoạt, sáng tạo vào điều kiện thực tiễn
Trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn,
sáng tạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất
trong Chiến dịch Hồ Chí Minh. Nhận thấy thời cơ chiến lược đến sớm, BCT hạ quyết tâm
giải phóng Sài Gòn-Gia Định ngay trong tháng 4-1975. Từ đó, BCT quyết định thành lập
BCH chiến dịch, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo tại chỗ của BCT đối với chiến dịch; thành
lập Hội đồng Chi viện tiền phương do Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch; chỉ đạo toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân tập trung nỗ lực cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Với
phương châm “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”, nhiều binh đoàn chủ lực được lệnh gấp rút tiến
quân, sẵn sàng tiến công vào sào huyệt cuối cùng của kẻ thù. Chấp hành nghiêm mệnh lệnh
đề ra, Quân đoàn 2 sau khi giải phóng Đà Nẵng đã thực hiện cuộc hành quân theo Đường 1
ven biển với cự ly 900km trong 18 ngày để kịp thời đến vị trí tập kết. Trong điều kiện thiếu
phương tiện, hậu cần khó khăn, vừa đi vừa đánh địch mở đường... thì đây là sự nỗ lực vượt
bậc của toàn thể cán bộ, chiến sĩ quân đoàn, làm cho kẻ địch thêm bất ngờ, hoang mang dao
động. Khi vừa hành quân đường xa đến nhận nhiệm vụ tại chiến trường mới lạ, địa hình bị
10 Bộ tư lệnh Quân đoàn 2, Lịch sử Quân đoàn 2 (1974-2004), Nxb QĐND, H, 2004, tr.260.
37

5.2 Page 42

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
chia cắt phức tạp, địch lại bố trí hệ thống phòng thủ dày đặc, nhưng chỉ trong 5 ngày (21
đến 25-4-1975), Quân đoàn 2 đã hoàn thành công tác chuẩn bị, sẵn sàng nổ súng. Quá trình
chấp hành sự chỉ đạo của BCT và BCH chiến dịch, Quân đoàn 2 đã có sự vận dụng linh
hoạt, sáng tạo và giành thắng lợi to lớn. Đó là việc tịch thu và sử dụng các phương tiện, vũ
khí của địch (chiếm 70% số lượng mang theo) để phục vụ quá trình cơ động, chiến đấu. Khi
hướng Quân đoàn 4 phát triển chiến đấu gặp khó khăn, BCH chiến dịch đã giao nhiệm vụ
cho Quân đoàn 2 chớp thời cơ, tổ chức lực lượng thọc sâu cơ giới mạnh (xe tăng kết hợp
đặc công, bộ binh) đánh thẳng vào Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ nội các chính quyền địch, kết
thúc chiến dịch vào trưa 30-4.
Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá
Đảng, Nhà nước và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam thông qua chiến lược
“diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên nói chung và cán bộ, chiến sĩ quân đội nói riêng nhằm thực hiện “phi chính trị hóa”
quân đội. Trong điều kiện đó, phải bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng đối
với quân đội. Kế thừa truyền thống vẻ vang hơn 76 năm qua, quân đội phải tuyệt đối trung
thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; quán triệt và chấp hành nghiêm sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Mặt khác, để mọi chủ trương, đường lối của
Đảng được thực hiện đúng, vận dụng sáng tạo, cần thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng
bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh; tích cực đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo, bám sát
nhiệm vụ chính trị trọng tâm; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện
những hạn chế, khuyết điểm để có biện pháp xử lý phù hợp.
Hai là, không ngừng chăm lo xây dựng LLVT nhân dân vững mạnh đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, tính riêng bộ đội chủ lực, ta huy động 4 quân đoàn
(1, 2, 3, 4) và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) với tổng quân số 250.000 quân, chiếm ưu
thế áp đảo so với quân địch (150.000 quân chủ lực). Mặt khác, sức chiến đấu của các binh
đoàn, quân đoàn chủ lực ta rất mạnh. Bản thân Quân đoàn 2 được giao nhiệm vụ tiến công
Sài Gòn từ hướng Đông Nam là một quân đoàn thiện chiến, có sức đột kích mạnh, cơ động
cao, trưởng thành vượt bậc với những kinh nghiệm chiến đấu trên đường “Nam tiến”. Đó là
kết quả của quá trình Trung ương Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên
quan tâm chăm lo xây dựng LLVT cách mạng làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc theo
phương châm “vừa chiến đấu, vừa xây dựng trưởng thành”, “càng đánh càng mạnh”. Vào
giai đoạn cuối cuộc kháng chiến, trên cơ sở LLVT nhân dân có bước phát triển nhanh chóng
(nhất là các sư đoàn, trung đoàn), BCT, QUTW quyết định thành lập những quân đoàn chủ
lực cơ động để thực hiện đòn quyết chiến chiến lược kết thúc chiến tranh. Nhờ đó, chỉ trong
5 ngày, Chiến dịch Hồ Chí Minh giành toàn thắng, ta giữ được thành phố Sài Gòn hầu như
nguyên vẹn.
Bối cảnh hiện nay và những năm tới, hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn
của thời đại; nhưng dự báo tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, với những thay đổi
nhanh chóng, khó lường. Các nước lớn có sự điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác thỏa hiệp,
vừa đấu tranh kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới và từng khu vực. Sự
38

5.3 Page 43

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã góp phần làm xuất hiện hình thái chiến
tranh và phương thức tác chiến mới. Tình hình Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp...
Những vấn đề thực tiễn đó đặt ra yêu cầu phải đổi mới tư duy quân sự, quốc phòng, xây
dựng LLVT ngày càng vững mạnh. Quân đội nhân dân Việt Nam với vai trò là lực lượng
nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc cần nhanh chóng tiến lên hiện đại để đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ đặt ra.
Ba là, phát huy sức mạnh đoàn kết, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị bạn, với
LLVT và nhân dân địa phương
Để bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 đã tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo phát huy tốt sức mạnh đoàn kết tập thể. Mọi đường lối, chủ trương của
Đảng, chỉ đạo của BCT, mệnh lệnh của BCH chiến dịch đều được quán triệt và phổ biến kịp
thời đến cán bộ, chiến sĩ; các vấn đề liên quan đến phương án, kế hoạch cơ động và tác
chiến... đều được thảo luận bàn bạc dân chủ, tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành
động. Bên cạnh đó, Quân đoàn 2 phối hợp chặt chẽ với các cánh quân, các hướng đồng loạt
nổ súng đúng thời gian quy định, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó, tạo điều kiện
cho các lực lượng thọc sâu thần tốc đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu trong nội đô. Các đơn
vị đặc công vùng ven (nhất là Trung đoàn 116) đã dũng cảm chiến đấu bảo vệ các cầu
(không cho địch phá hoại) tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội chủ lực tiến quân; LLVT và
nhân dân địa phương tích cực giúp bộ đội nắm tình hình địch, dẫn đường cho các mũi tiến
công, tích cực vận chuyển, cứu chữa thương binh... Tất cả cùng bước vào trận đánh với thế
trận chiến tranh nhân dân-sức mạnh vô địch của cách mạng.
Những năm gần đây, các thế lực phản động, phần tử xấu thường xuyên có những thủ
đoạn tinh vi nhằm phá hoại truyền thống đoàn kết nội bộ, kích động để gây chia rẽ quân đội
và nhân dân. Tuy nhiên, Đảng ta đã khẳng định: Dù trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào,
quân đội cũng một lòng một dạ trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân;
nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng, xứng đáng với lòng yêu mến, tin cậy của Đảng, Nhà
nước và nhân dân. Để giữ vững và phát huy sự đoàn kết, quân đội cần tiếp tục làm tốt công
tác dân vận, tích cực giúp các địa phương trên địa bàn đứng chân phát triển kinh tế-xã hội,
xóa đói, giảm nghèo... nhằm góp phần xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, phát huy
mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân như
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
Bốn là, động viên cán bộ, chiến sĩ nêu cao truyền thống yêu nước, phát huy sức
mạnh chính trị-tinh thần vượt qua mọi khó khăn
Suốt quá trình chuẩn bị và trực tiếp tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, cán bộ, chiến
sĩ trên hướng Đông Nam gặp nhiều khó khăn về đường cơ động xa, thời gian chuẩn bị gấp,
chiến trường mới lạ, địa hình chia cắt, quân địch phòng thủ mạnh... Tuy nhiên, Đảng ủy, Bộ
tư lệnh Quân đoàn 2 chỉ đạo cơ quan, cán bộ chính trị làm tốt công tác tuyên truyền, giáo
dục, động viên cán bộ, chiến sĩ nêu cao truyền thống yêu nước, phát huy sức mạnh chính trị-
tinh thần vượt qua khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đó là việc không ngừng củng
cố lòng tin tưởng tuyệt đối vào lý tưởng và mục tiêu cao cả “Không có gì quý hơn độc lập,
tự do”; phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng vào thắng lợi cuối cùng của
39

5.4 Page 44

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
cuộc đấu tranh. Trên cơ sở đó, giúp cho bộ đội rèn luyện tinh thần cách mạng triệt để, tư
tưởng cách mạng tiến công không ngại hy sinh, gian khổ. Thực tiễn chiến đấu đã xuất hiện
nhiều tấm gương kiên cường, anh dũng, như các trận đánh tại trường huấn luyện bộ binh,
trường biệt kích, chi khu Nhơn Trạch, cầu Cỏ May... Chính sự chiến đấu kiên cường, quả
cảm của cán bộ, chiến sĩ ta làm quân địch khiếp sợ, hoảng loạn tháo chạy, dẫn đến thất bại
nhanh chóng.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay,
Đảng ta luôn coi trọng xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị-tinh
thần, mà nội dung cơ bản là xây dựng, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc và
tính nhân dân sâu sắc, bảo đảm cho quân đội phát huy tốt vai trò lực lượng nòng cốt cùng
toàn dân giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân, thành quả cách mạng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Qua đó, tiếp
tục xây đắp nên truyền thống vẻ vang anh hùng, xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch
Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc
lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”; xứng đáng với danh hiệu cao quý Bộ đội Cụ
Hồ mà nhân dân khen tặng.
***
Chiến dịch Hồ Chí Minh (Xuân 1975) được ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như
một chiến công chói lọi, là minh chứng tiêu biểu, khẳng định sự chỉ đạo sáng suốt, tài tình
của BCT, QUTW, Bộ Quốc phòng ở giai đoạn cuối cuộc chiến tranh giải phóng. Trong
chiến công vĩ đại đó, cánh quân hướng Đông Nam do Quân đoàn 2 làm nòng cốt có đóng
góp quan trọng. Những bài học rút ra từ thực tiễn tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh của
cánh quân hướng Đông Nam cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
10. Nguyễn Phú Trọng. Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là
thắng lợi của đường lối và nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng
tạo của Đảng / Nguyễn Phú Trọng11 // https://baochinhphu.vn. 2015. Ngày 24 tháng 4.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của quân và dân ta, tạo bước ngoặt trong lịch sử
dân tộc, mở ra kỷ nguyên mới đối với nước ta - kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước đi
lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thể hiện sâu sắc
sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong thời đại Hồ
Chí Minh. Đó cũng là một sự kiện có tầm vóc quốc tế to lớn và mang tính thời đại sâu sắc.
Thắng lợi đó bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó nhân tố quyết định nhất là nhờ có sự lãnh
đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, phát huy cao độ nghệ thuật quân sự độc đáo Việt Nam.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta (1954-1975) là sự tiếp tục
cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Trong điều kiện đất nước tạm thời bị chia cắt
11 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trng
40

5.5 Page 45

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
làm hai miền, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn cứ vào tình hình quốc tế, trong
nước, so sánh thế và lực giữa ta và địch, nắm vững phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, đề ra đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo và tổ chức thực hiện
đường lối đó phù hợp với điều kiện cụ thể và sự phát triển của cách mạng Việt Nam trong
giai đoạn mới.
Đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta từ tháng 7/1954
đến tháng 5/1975, đó là Đảng ta đã thực hiện đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập,
tự chủ, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời hai
chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc, nhằm một mục tiêu chung là hoàn thành độc lập, thống nhất Tổ
quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta xác định: Miền Bắc là hậu phương lớn,
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự
nghiệp cách mạng của cả nước; miền Nam là tiền tuyến lớn, cách mạng miền Nam có tác
dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam. Mối quan hệ giữa hai
chiến lược cách mạng ở hai miền Nam-Bắc là mối quan hệ hữu cơ, gắn bó chặt chẽ với
nhau, thúc đẩy và hỗ trợ nhau cùng phát triển. Đó là nét độc đáo chưa có tiền lệ trong lịch
sử và là thành công lớn của Đảng ta; đồng thời, là nguyên nhân chủ yếu, nhân tố quyết định
thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lâu dài, gay go, quyết liệt của
nhân dân ta.
Việc xác định đường lối cách mạng độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo đã thể hiện
tầm nhìn xa trông rộng, tư duy chiến lược, tài thao lược xuất sắc của Đảng, nhất là ở những
thời điểm mang tính bước ngoặt của cuộc kháng chiến. Trước tình hình chính quyền tay sai
Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách “tố cộng”, “"diệt cộng”, lê máy chém đi khắp miền
Nam, thẳng tay đàn áp các chiến sĩ cách mạng và quần chúng nhân dân, phong trào cách
mạng miền Nam phát triển khó khăn, tháng 1/1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tổ
chức Hội nghị lần thứ 15 (mở rộng), dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định con
đường tiến lên của cách mạng miền Nam, vạch rõ mục tiêu và phương pháp cách mạng, mối
quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở hai miền, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng
thế giới nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà. Nghị quyết
Trung ương 15 chỉ rõ: con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là
khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân; ngoài ra không có con đường nào khác. Chủ
trương đúng đắn đó của Đảng đã tạo ra "làn gió mới", khí thế mới, trở thành động lực thúc
đẩy cách mạng miền Nam vững bước tiến lên. Mở đầu là phong trào Đồng khởi vào cuối
năm 1959, sau đó nhanh chóng phát triển thành cao trào Đồng khởi trên khắp miền Nam.
Thắng lợi của phong trào Đồng khởi đã tạo bước ngoặt, đưa cách mạng miền Nam chuyển
từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Đây là sự mở đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước rất độc đáo, sáng tạo; đồng thời, là cơ sở để Đảng ta tiếp tục phát triển chiến tranh
toàn dân, toàn diện và đánh bại các chiến lược: “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965), "Chiến
tranh cục bộ" (1965-1968), "Việt Nam hóa chiến tranh" (1969-1973) của đế quốc Mỹ,
“Đánh cho Mỹ cút”, tiến tới “Đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất Tổ quốc.
41

5.6 Page 46

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Cùng với việc đề ra đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo, Đảng
ta đã kiên định phương pháp cách mạng bạo lực tổng hợp, gồm hai lực lượng chủ yếu là lực
lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân, kết hợp chặt chẽ đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang được tiến hành trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước. Đồng thời, kiên trì thực hiện tư tưởng chiến lược tiến công. Tư tưởng đó được thực
hiện không chỉ trong lúc địch "xuống thang" mà ngay cả khi chúng "leo thang" chiến tranh;
và không chỉ đối với chiến tranh cách mạng ở miền Nam, mà cả trong cuộc chiến đấu bảo
vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Chiến lược tiến công được thực hiện ở mọi thời điểm, trong
mọi điều kiện, hoàn cảnh, với phương châm: "Đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận,
kéo địch xuống thang từng bước, tiến tới đánh bại hoàn toàn quân địch, giành thắng lợi
quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước". Sau khi Hiệp định Paris được ký
kết (27/1/1973), quân đội viễn chinh Mỹ buộc phải cuốn cờ rút khỏi miền Nam Việt Nam
(29/3/1973), cục diện chiến trường chuyển biến có lợi cho ta. Nắm vững thời cơ chiến lược
được mở ra sau gần hai mươi năm chiến đấu, Hội nghị Trung ương lần thứ 21 (khóa III) họp
hai đợt (đợt I từ ngày 19/6 đến ngày 6/7/1973, đợt II từ ngày 1/10 đến ngày 4/10/1973) đã
khẳng định và củng cố quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc trong thời gian
sớm nhất.
Năm 1974, quân và dân ta mở các cuộc tiến công tạo thế trên khắp các chiến trường
miền Nam, làm cho đối phương bị động, đối phó. Sau chiến thắng Thượng Đức, Đồng Xoài,
nhất là thắng lợi của chiến dịch Đường 14-Phước Long, đã tạo cơ sở để Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng hạ quyết tâm, thực hiện kế hoạch chiến lược giải phóng miền
Nam trong hai năm 1975-1976, đồng thời có phương án nếu thời cơ xuất hiện thì giải phóng
miền Nam ngay trong năm 1975, thậm chí trước mùa mưa năm 1975.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nghệ thuật quân
sự và chiến tranh nhân dân Việt Nam đã phát triển tới đỉnh cao. Nhân tố bảo đảm cho sự
phát triển không ngừng của chiến tranh nhân dân đó là lực lượng vũ trang nhân dân, gồm ba
thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích được xây dựng vững mạnh,
bố trí rộng khắp; trong đó, các binh đoàn chủ lực giữ vai trò nòng cốt trong các chiến dịch,
thực hiện tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng quy mô lớn. Nắm vững quy luật chiến tranh,
vận dụng và thực hiện sáng tạo nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, chúng ta đã
từng bước chuyển hóa cục diện chiến trường theo hướng có lợi, luôn đánh địch trên thế
mạnh, thế chủ động, thế bất ngờ. Nét đặc sắc, độc đáo của chiến tranh nhân dân còn được
thể hiện ở chỗ đã kết hợp chặt chẽ các nhân tố "thế, lực, thời, mưu" trong từng trận đánh,
từng chiến dịch một cách linh hoạt, làm cho địch không thể lường được các hướng, mũi, lực
lượng và sức mạnh tiến công của ta. Đó là cơ sở để Đảng ta kiên trì thực hiện phương châm
chiến lược: đánh đổ từng bộ phận quân địch, giành thắng lợi từng bước, tiến tới đánh bại
hoàn toàn quân địch, giành thắng lợi cuối cùng bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa
Xuân 1975.
Đảng ta đặc biệt coi trọng và phát huy hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị
trong quân đội; trong các chiến dịch. Kế thừa kinh nghiệm công tác đảng, công tác chính trị
được tiến hành từ khi Quân đội ta mới thành lập và trong cuộc kháng chiến chống thực dân
42

5.7 Page 47

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Pháp, công tác đảng, công tác chính trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã
được phát triển lên một bước mới, phong phú về nhiều mặt, thực sự là "linh hồn, mạch
sống" của Quân đội ta. Căn cứ vào tình hình thực tế trên chiến trường, công tác đảng, công
tác chính trị đã tập trung xây dựng quyết tâm chiến đấu, làm cho toàn quân nhất trí cao với
đường lối, chủ trương của Đảng, cả về mục tiêu chiến lược, thời cơ chiến lược, phương
châm chỉ đạo chiến lược, phương thức tác chiến để giành thắng lợi. Chủ động chỉ đạo làm
tốt chức năng “đội quân công tác” ở vùng mới giải phóng, phát huy vai trò của lực lượng vũ
trang địa phương, nhân dân trên địa bàn tác chiến chiến dịch. Công tác đảng, công tác chính
trị đã trực tiếp định hướng tư tưởng bộ đội, khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước,
sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt ở miền Bắc, tinh thần đấu tranh kiên cường,
bất khuất của đồng bào miền Nam “thành đồng Tổ quốc”. Qua đó, tạo động lực chính trị -
tinh thần to lớn cho đồng bào và chiến sĩ cả nước trong cuộc đọ sức quyết liệt với kẻ thù
xâm lược. Hoạt động công tác đảng, công tác chính trị còn góp phần xây dựng cho cán bộ,
chiến sĩ phương pháp tư duy quân sự cách mạng, khoa học; giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa con người và vũ khí; giữa chính trị và quân sự; giữa dân chủ, kỷ luật và đoàn kết.
Về công tác tổ chức, xây dựng Đảng, đã tập trung xây dựng "chi bộ 4 tốt" kết hợp
với xây dựng các trung đoàn, sư đoàn vững mạnh; tăng cường rèn luyện đảng viên gắn với
rèn luyện cán bộ; duy trì nghiêm các nền nếp sinh hoạt, hoạt động của các tổ chức đảng
trong điều kiện chiến tranh; thường xuyên chăm lo bảo đảm chính sách đối với bộ đội và
hậu phương quân đội. Đội ngũ cán bộ chính trị các cấp được kiện toàn, bồi dưỡng về phẩm
chất, năng lực nên có sự phát triển nhanh chóng và khẳng định vai trò quan trọng trong thực
tiễn chiến đấu. Đặc biệt, Đảng ta hết sức chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến dịch,
chiến lược có đủ "tâm", đủ "tầm" và kinh nghiệm chỉ đạo tác chiến. Hình ảnh những vị tư
lệnh, chính ủy các binh đoàn chủ lực mẫu mực, xông xáo, quyết đoán, toàn tâm toàn ý với
sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc mãi mãi để chúng ta tôn vinh và học
tập.
Hoạt động hiệu quả của công tác đảng, công tác chính trị cùng với các mặt công tác
khác đã thực sự làm cho đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng đi vào thực tiễn chiến đấu
của quân và dân ta, tạo nên sức mạnh chính trị - tinh thần to lớn, nhất là trong những thời
điểm bước ngoặt, có tính quyết định.
Đại thắng mùa Xuân 1975 là thành quả vĩ đại của nhân dân ta, thể hiện ý chí, khát
vọng độc lập, thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh. Với đường lối
kháng chiến độc lập, tự chủ, Đảng ta đã huy động được cao nhất sức mạnh của cả nước, bao
gồm cả sức mạnh vật chất và sức mạnh chính trị - tinh thần, sức mạnh truyền thống yêu
nước nồng nàn của đất nước ngàn năm văn hiến cho cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ
xâm lược lâu dài, cam go, quyết liệt.
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với quan điểm đoàn kết
quốc tế thủy chung, trong sáng, Đảng ta đã phát huy hiệu quả sức mạnh dân tộc kết hợp với
sức mạnh thời đại. Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Việt Nam mãi mãi biết ơn và
không bao giờ quên sự giúp đỡ chí tình chí nghĩa của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới,
của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhất là Liên Xô, Trung Quốc đối với cuộc đấu tranh
43

5.8 Page 48

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
chính nghĩa của dân tộc ta; đặc biệt là sự đoàn kết liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung
của nhân dân ba nước Việt Nam-Lào-Campuchia. Sự ủng hộ to lớn cả vật chất và tinh thần
của cộng đồng quốc tế là một nhân tố quan trọng góp phần làm nên thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của chúng ta.
***
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực bên cạnh mặt thuận lợi, vẫn tiếp tục có những
diễn biến phức tạp, khó lường. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn rất gay gắt, tiềm ẩn
những nhân tố mất ổn định; chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên,
chủ quyền lãnh thổ, biển đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai,
khủng bố và các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống có chiều hướng gia tăng, tạo ra
thách thức với nhiều quốc gia. Ở trong nước, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan
trọng trên các lĩnh vực sau 30 năm đổi mới; tiềm lực mọi mặt của đất nước được tăng
cường, uy tín, vị thế của nước ta ngày càng được nâng cao, song cũng còn nhiều khó khăn,
thách thức. Các thế lực thù địch vẫn đang đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc
đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” Quân đội. Tình hình Biển Đông
diễn biến phức tạp, cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo còn lâu dài, không ít khó
khăn. Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta
rất nặng nề, đan xen cả thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức. Để hoàn thành thắng
lợi nhiệm vụ chiến lược này, chúng ta phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý, điều hành của Nhà nước, phát huy vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,
các cấp, các ngành, các lực lượng, trong đó lực lượng vũ trang là nòng cốt.
Năm nay, chúng ta kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất đất nước đúng vào thời điểm Đảng ta tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội
XII của Đảng. Đây là một sự kiện trọng đại đối với Đảng ta, dân tộc ta; đồng thời, cũng là
dịp để Đảng ta nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, phát huy trí tuệ của toàn
Đảng, hoàn thiện đường lối đổi mới, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng đất nước và
bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới.
Bài học thành công về sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước cần phải được tiếp tục kế thừa, phát huy trong tình hình mới. Đó là bài học kiên định
đường lối, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên định và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững bản chất giai cấp công
nhân và củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Trên cơ sở đó, xác định đường lối,
chủ trương, giải pháp lãnh đạo đúng đắn, sát yêu cầu phát triển của cách mạng; tích cực đổi
mới phương thức lãnh đạo, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tìm ra quy luật khách
quan bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng mang lại hiệu lực, hiệu quả trên thực tế.
Để xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, thực sự “là đạo đức, là văn
minh” như tâm nguyện của Bác Hồ, toàn Đảng phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh; tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và những biểu hiện suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Các tổ chức
đảng từ Trung ương đến cơ sở phải làm tốt hơn nữa công tác xây dựng Đảng; cán bộ của
44

5.9 Page 49

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Đảng phải thực sự là công bộc của dân, quan tâm đến nguyện vọng và lợi ích chính đáng
của người dân; khắc phục mọi biểu hiện quan liêu, xa rời quần chúng, "lợi ích nhóm", mất
đoàn kết nội bộ v.v... Đồng thời, tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, tích cực đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững sự
lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Quân đội nhân dân với vai trò là một lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc và là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Tổ quốc,
Nhân dân, cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng theo hướng "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại". Quân đội cần chủ động nắm chắc tình hình, dự báo chính xác xu hướng
phát triển, nhất là những vấn đề liên quan đến quốc phòng, an ninh của đất nước; trên cơ sở
đó, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng công an, đối ngoại để tham mưu, đề xuất với Đảng,
Nhà nước hoạch định đường lối, chiến lược bảo vệ Tổ quốc và có đối sách, xử lý đúng đắn
các tình huống, không để bị động, bất ngờ, góp phần tạo môi trường hòa bình ổn định để
xây dựng, phát triển đất nước. Quân đội ta là quân đội cách mạng, từ nhân dân mà ra, vì
nhân dân mà chiến đấu, phải tiếp tục hoàn thành tốt vai trò là đội quân chiến đấu, đội quân
công tác và đội quân lao động, sản xuất, xứng đáng với niềm tin cậy của Đảng, Nhà nước và
Nhân dân, tô thắm thêm truyền thống phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”.
Để làm được điều đó, phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt của Đảng đối với Quân đội; tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh cả
về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu cao; kiên
quyết đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn "phi chính trị hóa "Quân đội của các thế lực thù
địch. Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng cần nghiên cứu, tổ chức thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Trung ương 8 khoá XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; trong
đó trọng tâm là xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân
gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ và các phương án, kế hoạch
phòng thủ đất nước. Thường xuyên chăm lo xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về
chính trị, tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động công tác đảng, công tác chính trị
trong toàn quân và lực lượng dân quân tự vệ.
Lịch sử 85 năm ra đời và phát triển của Đảng ta cho thấy, càng trong những thời
điểm khó khăn, phức tạp thì bản lĩnh, trí tuệ, đạo đức, năng lực lãnh đạo của Đảng càng
được khẳng định. Chúng ta tin tưởng rằng, bài học thành công về sự lãnh đạo của Đảng
trong Đại thắng mùa Xuân 1975, cũng như toàn bộ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước sẽ tiếp
tục được phát huy trong tình hình mới.
11. Trần Nam Chuân. Tầm vóc lịch sử của Đại thắng mùa Xuân 1975 / Trần Nam
Chuân12 // https://www.bienphong.com.vn. 2015. Ngày 27 tháng 4.
Biên phòng - Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã lùi xa 40 năm, nhưng với
Đại thắng mùa Xuân năm 1975, tầm vóc và giá trị lịch sử của nó vẫn còn vang mãi trong
12 Đại tá, PGS, TS Trần Nam Chuân
45

5.10 Page 50

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Với chiến thắng oanh liệt và hào hùng, quân và dân
ta đã “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, quét sạch hoàn toàn bóng quân xâm lược,
giang sơn thu về một mối, cả nước sống trong hòa bình, độc lập, thống nhất.
Bằng cuộc tấn công mau lẹ, chớp nhoáng, quân và dân ta đã giành thắng lợi hết sức
ngoạn mục vào rạng sáng ngày 10-3-1975, tại thị xã Buôn Ma Thuột, mở màn cho cuộc
tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng
lợi (30-4-1975) bằng cuộc tổng công kích vào thành phố Sài Gòn - Gia Định, sào huyệt cuối
cùng của bè lũ xâm lược và tay sai. Quân và dân ta đã giành thắng lợi huy hoàng; kết thúc
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau 21 năm chiến đấu gian khổ, hy sinh, quật cường
và anh dũng.
Trưa ngày 30-4-1975, những người lính xe tăng đã chiếm lĩnh
hoàn toàn dinh Độc Lập. Ảnh: Tư liệu
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước vĩ đại mãi mãi để lại cho dân tộc Việt Nam những bài học kinh nghiệm vô cùng quý
giá về phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết chiến và quyết thắng kẻ
thù xâm lược, gìn giữ non sông đất nước, cho dù kẻ thù đó mạnh đến đâu.
Đại thắng mùa Xuân 1975 đã đưa dân tộc ta lên hàng các dân tộc tiên phong trong
cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, là kết quả tất yếu
của những nhân tố tạo thành sức mạnh thần kỳ của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí
Minh. Với thắng lợi đó, trước hết là thắng lợi của sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, một bộ phận kiên cường của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đảng ta tiêu biểu cho ý chí quật cường, bất khuất
của dân tộc Việt Nam anh hùng và tinh thần cách mạng triệt để của giai cấp công nhân Việt
Nam. Thấm nhuần sâu sắc học thuyết Mác-Lênin, Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo,
khoa học vào hoàn cảnh thực tế của Việt Nam để vạch ra đường lối đúng đắn đưa cách
mạng nước ta từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tất cả những điều đó đã nói lên bản chất,
46

6 Pages 51-60

▲back to top

6.1 Page 51

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
truyền thống của Quân đội ta: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì
độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Để có được chiến thắng vĩ đại mùa Xuân năm 1975, không thể không nói đến nghệ
thuật quân sự độc đáo của văn hóa quân sự Việt Nam với sự kết tinh truyền thống của mấy
nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Trước hết, đó là việc xây dựng quân đội cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Khi thời cơ đến chuyển hóa thành sức
mạnh vô địch. Với sức mạnh tổng hợp của nhiều quân chủng, binh chủng hợp thành, nhiều
thứ quân kết hợp chặt chẽ, khai thác hết mọi địa hình, địa thế, vũ khí, trang bị, kỹ thuật, kết
hợp hiện đại với thô sơ, đặc biệt là coi trọng yếu tố con người, quân đội ta có sức chiến đấu
rất cao và khả năng chiến thắng rất lớn. Nhưng điều quan trọng hơn là, sự vận dụng năng
động, sáng tạo nghệ thuật quân sự Việt Nam một cách tài tình của Đảng và quân đội trong
việc quyết chiến và quyết thắng kẻ thù.
Với Đại thắng mùa Xuân năm 1975, chúng ta thấy một thế mạnh phi thường của
quân đội ta khi tiến vào giải phóng thành phố Sài Gòn - Gia Định. Chúng ta hành quân thần
tốc tiến thẳng vào Sài Gòn. Trên đường tiến quân, nhiều nơi chúng ta đã "không đánh mà
thắng". Kẻ thù thấy quân ta đi qua vội vã xin hàng, tháo chạy không dám chống cự. Đây
chính là thế của sức mạnh chính nghĩa, thế trận của sức mạnh lòng dân, của chiến tranh toàn
dân, toàn diện mà Đảng ta đã dày công xây dựng.
Để có được những ngày tháng hào hùng như hôm nay, chúng ta càng thấm thía công
lao to lớn của Đảng, Bác Hồ đã lãnh đạo dân tộc, quân đội làm nên bao chiến thắng vô cùng
lớn lao. Với nhiều phương pháp, nhiều hình thức phong phú và những bước đi phù hợp,
Đảng ta đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước toàn dân, toàn diện với những
chiến lược, sách lược năng động một cách tuyệt vời.
Đại thắng mùa Xuân 1975 thống nhất Tổ quốc, kết thúc 30 năm chiến tranh giải
phóng của dân tộc ta, chúng ta càng biết ơn nhân dân ta đã sản sinh ra quân đội, đùm bọc,
cưu mang quân đội, cùng quân đội đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Lịch sử chứng minh sự
gắn bó giữa quân với dân là điều không thể thiếu được để quân đội ta tồn tại và phát triển.
Ngoài ra, để đóng góp vào chiến thắng này, phải nói đến thế hệ trẻ Việt Nam, lớp trước tiếp
lớp sau luôn là lực lượng hùng hậu, nòng cốt của quân đội và luôn luôn tỏ rõ bản chất anh
hùng, hoàn thành tốt vai trò xung kích cách mạng của mình, thực hiện lời dạy của Bác "đào
núi và lấp biển/quyết chí ắt làm nên". Cần phải giáo dục thế hệ trẻ, đặt niềm tin vào họ và
tạo cho họ cơ hội thể hiện mình trong quân đội cũng như trong xã hội sẽ là tiền đề của mọi
sự thắng lợi. Đây cũng có thể nói là bài học quý giá mà chúng ta rút ra từ cuộc chiến tranh
giữ nước, tiếp tục phát huy trong hôm nay và mãi mãi cho các thế hệ mai sau.
Với những chiến công lẫy lừng của dân tộc ta, chúng ta vô cùng biết ơn nhân dân yêu
chuộng hòa bình, công lý trên thế giới đã hết lòng ủng hộ, động viên quân dân ta chiến đấu
và chiến thắng kẻ thù. Điều đó chứng tỏ dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sức mạnh của
cả dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại làm nên sức mạnh Việt Nam - đó là một sức mạnh
vô biên. Có thể nói, đây cũng là bài học vô giá của cách mạng Việt Nam để chiến thắng
quân thù.
47

6.2 Page 52

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Những bài học kinh nghiệm quý giá mà chúng ta đã rút ra được trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc, đó là tài sản vô giá để Đảng ta, Nhà nước ta,
nhân dân ta và quân đội ta mãi mãi ghi nhớ và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn của công
cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới; thực hiện
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
12. Trần Việt Khoa. Nghệ thuật tạo sức mạnh về lực lượng và thế trận trong Chiến
dịch Hồ Chí Minh / Trần Việt Khoa13 // https://www.qdnd.vn. 2023. Ngày 28 tháng 4.
Cách đây gần nửa thế kỷ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là
Đảng Cộng sản Việt Nam), quân và dân ta đã tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa
Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Đại thắng mùa Xuân 1975 góp phần kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta; đánh dấu bước phát triển tới đỉnh cao của nghệ
thuật chiến dịch Việt Nam, trong đó, nghệ thuật tạo sức mạnh về lực lượng và thế trận là
những nét đặc sắc tiêu biểu.
Nghệ thuật tạo sức mạnh về lực lượng
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh cách mạng
Việt Nam, ta đã tạo được ưu thế áp đảo địch về lực lượng. Ý định xây dựng các binh đoàn
chiến lược lớn cho các đòn chiến lược Xuân 1975, trong đó có trận quyết chiến chiến lược
cuối cùng đã được Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo triển khai sớm. Sau
những thắng lợi từ hai đòn tiến công chiến lược ở Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng, với khí
thế và quyết tâm rất cao, ta đã tập trung được lực lượng ưu thế hơn hẳn địch cả về số lượng
và chất lượng, bằng cách nhanh chóng cơ động hầu hết lực lượng chủ lực từ miền Bắc, miền
Trung vào địa bàn chiến dịch, tổ chức thành công nhiều binh đoàn chiến lược hành quân
thần tốc đường dài, vừa đi, vừa chuẩn bị chiến đấu, vừa liên tục chiến đấu (Quân đoàn 1
hành quân 24 ngày, vượt 1.500km; Quân đoàn 2 vừa đi vừa tác chiến mở đường hơn
900km, Quân đoàn 3 liên tục tác chiến và hành quân hơn l.000km) đã vào tới chiến trường
đúng ngày quy định (từ ngày 21 đến 25-4) cùng với Quân đoàn 4 và Đoàn 232 ở tại chỗ...
Tính đến ngày 25-4-1975, ta đã tập trung cho chiến dịch được khoảng 270.000 quân (chủ
lực 250.000 quân) với 15 sư đoàn, 14 trung đoàn bộ binh, tổ chức thành 4 quân đoàn và
Đoàn 232 (tương đương 1 quân đoàn), một số trung đoàn, lữ đoàn độc lập. Binh khí kỹ thuật
cũng được ta tập trung khối lượng rất lớn với hơn 1.000 khẩu pháo các loại, 1 đại đội máy
bay A-37; 320 xe tăng, thiết giáp...
Riêng về lực lượng quần chúng có tổ chức được chuẩn bị làm nòng cốt cho nổi dậy
trong thành phố đến trước chiến dịch cũng khá hùng hậu. Ta đã tăng cường vào vùng ven và
nội thành 1.700 cán bộ, tập kết cách nội đô 3-15km, chuẩn bị nhập thành l.300 cán bộ. Nội,
ngoại thành Sài Gòn đã có hơn 1.200 đảng viên; 10.000 quần chúng nòng cốt, 40 “lõm
13 Thượng tướng, PGS, TS TRẦN VIỆT KHOA, Ủy viên Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện
Quốc phòng
48

6.3 Page 53

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
chính trị” với 7.000 quần chúng làm chủ có mức độ, 400 tổ chức công khai “biến tướng” với
gần 25.000 người do ta nắm. Cùng với đó, ta còn huy động được hơn 1.600 xe kỹ thuật
chiến đấu, hơn 10.000 xe vận tải và một khối lượng vật chất lên tới gần 60.000 tấn, trong đó
có 15.000 tấn đạn (190.000 viên đạn pháo lớn)...
Xe tăng của Quân Giải phóng tiến vào dinh Độc Lập trưa 30-4-1975. Ảnh tư liệu
Song song với việc tạo sức mạnh cho chiến dịch, ta tích cực làm giảm lực lượng địch
bằng những đòn tiêu diệt lớn (trước đó) ở miền Trung, không cho địch co cụm; đồng thời,
tích cực đánh vào dự trữ chiến lược địch, không cho chúng bổ sung, ứng cứu cho nhau...
Thành công của nghệ thuật tập trung lực lượng ta, phá thế tập trung lực lượng của địch đã
mang lại lợi thế lớn cho ta. Đến trước khi Chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn, địch đã bị thiệt
hại tới 35% quân số, 40% hậu cần, 40% binh khí kỹ thuật; Đồng bằng sông Cửu Long là nơi
dự trữ chiến lược của địch, nhưng chúng cũng không còn bắt được lính bổ sung; ta lại đẩy
mạnh thực hiện chia cắt chiến lược, không cho địch tăng viện ứng cứu từ Đồng bằng sông
Cửu Long về Sài Gòn. Đặc biệt, sau những thất bại có tính bước ngoặt về chiến lược ở Tây
Nguyên và Huế-Đà Nẵng, đến ngày 25-4-1975, mặc dù địch ở Quân khu 3 cộng với tàn
quân từ Quân khu 1 và Quân khu 2 chạy về còn rất đông, khoảng 245.000 tên (trong đó có
152.000 quân chủ lực), hơn 500.000 quân phòng vệ dân sự với 6 sư đoàn, 5 lữ đoàn (sau
thành lập thêm 1 sư đoàn biệt động quân) và 407 khẩu pháo, 624 xe thiết giáp, 862 tàu,
xuồng, 229 phi cơ chiến đấu, nhưng tinh thần chiến đấu đã suy sụp; số quân phòng vệ dân
sự tuy còn đông nhưng hiệu lực tác chiến thấp.
So sánh về số lượng, nhất là về chất lượng, đặc biệt là về “quả đấm” chủ lực, rõ ràng
ta có ưu thế áp đảo về lực lượng so với địch (tỷ lệ ta/địch là 1,7/1 về chủ lực và 3/1 về đơn
vị tập trung). Đây là một điều đặc biệt của Chiến dịch Hồ Chí Minh mà trong cả cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước chưa từng có; đồng thời cho thấy việc ta xây dựng, tập trung
được các quân đoàn 1, 2, 3, 4, các sư đoàn của các quân khu 7, 8, 9 và trung đoàn bộ binh
49

6.4 Page 54

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
của Quân khu 6 là điều kiện vô cùng quan trọng và cũng là những kinh nghiệm sinh động
của việc chuẩn bị cho đòn quyết chiến chiến lược trong giai đoạn cuối chiến tranh.
Nghệ thuật tạo sức mạnh về thế trận
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, cùng với việc tạo được ưu thế áp đảo địch về lực, ta
còn sớm chuẩn bị được một thế trận lợi hại. Đây cũng là yếu tố đặc biệt quan trọng để chiến
dịch giành thắng lợi giòn giã và cũng là một kinh nghiệm có giá trị cả về lý luận và thực tiễn
về nghệ thuật chỉ đạo tạo thế cho một chiến dịch quan trọng quyết định. Đó là, trước khi
Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu, ta đã xác định đúng vị trí của chiến trường, sớm có dự
kiến tạo thế trận. Tại miền Đông Nam Bộ, rừng núi được xác định là chiến trường tiêu diệt
lớn quân địch, Sài Gòn-Gia Định là chiến trường quyết chiến chiến lược cuối cùng đánh bại
hoàn toàn quân địch. Ý định đó của chiến lược đã được Bộ tư lệnh Miền quán triệt và kiên
trì vận dụng sáng tạo.
Việc chuẩn bị thế trận chiến dịch tiến công có tầm chiến lược thường do lực lượng tại
chỗ chuẩn bị một phần từ trước khi lực lượng chiến lược tăng cường xuống. Trong khi
chuẩn bị thế đứng và tuyến xuất phát tiến công của chủ lực trong Chiến dịch Hồ Chí Minh,
ngay từ mùa khô 1974-1975, Bộ chỉ huy Miền đã đồng thời tạo thế triển khai xuất phát tiến
công cho cả chủ lực tại chỗ của Miền và chủ lực cơ động của Bộ. Theo đó, trên 5 hướng tiến
công vào Sài Gòn thì 2 hướng Đông và Tây-Tây Nam, ta đã bố trí Quân đoàn 4 và Đoàn
232 đảm nhiệm, vừa tiến công tạo thế từ trước chiến dịch, vừa là cánh quân tiến công khi
mở chiến dịch. Cùng với đó, thế ba vùng chiến lược, thế bố trí ba thứ quân tại chỗ được ta
triển khai sớm và hoàn chỉnh trước chiến dịch đã tạo địa bàn tập kết thuận lợi cho lực lượng
rất lớn của chiến dịch. Hậu phương rừng núi miền Đông đã mở rộng và hoàn chỉnh, nối
thông đường vận chuyển chiến lược vươn từ chiến trường tới hậu phương lớn... Nhờ có thế
trận triển khai xuất phát tiến công đã được chuẩn bị từ trước, nên các quân đoàn từ xa có thể
tới thẳng ngay khu xuất phát tiến công của mình theo kế hoạch chiến dịch mà không phải
qua bước tự mình chuẩn bị toàn bộ thế bố trí. Trong đó, tuyến xuất phát tiến công của một
số quân đoàn chỉ cách mục tiêu chủ yếu trong nội đô chừng 40-50km đường chim bay là
điều hết sức lý tưởng.
Đặc biệt, bước vào thời kỳ trực tiếp tạo thế cho Chiến dịch Hồ Chí Minh, căn cứ vào
dự kiến kế hoạch và yêu cầu của thế trận chiến dịch, việc triển khai tạo thế trên nhiều mặt
rất rộng lớn và phức tạp; thế trận chiến dịch phải bảo đảm sử dụng lực lượng rất lớn, vừa
đánh địch bên ngoài, vừa đánh địch bên trong, vừa thọc sâu đánh hiểm, trong ngoài cùng
đánh, cũng như phát huy cùng một lúc toàn bộ sức mạnh của mọi lực lượng... Vì vậy, ngay
từ lúc mở đầu chiến dịch, ta đã hình thành được thế bao vây chia cắt địch ở phạm vi toàn
chiến dịch và từng khu vực địch để tiêu diệt, không cho địch ứng cứu lẫn nhau, không cho
chúng co cụm, tháo lui chạy thoát. Đồng thời, thế trận chiến dịch phát huy được đầy đủ sức
mạnh của cả hai lực lượng, của ba thứ quân và phối hợp chặt chẽ với nhau, trọng tâm là sức
mạnh tác chiến hiệp đồng binh chủng của các binh đoàn chiến lược. Với lực lượng vũ trang
tại chỗ làm nòng cốt cho quần chúng nổi dậy lúc này cũng có 2 trung đoàn và 5 tiểu đoàn
của thành, mỗi huyện có 1-2 đại đội, cả thành phố có 3.345 du kích và 233 tự vệ mật, 6
50

6.5 Page 55

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
trung đoàn đặc công... được bố trí trên các trục đường tiến quân của các cánh quân chủ lực
vào thành phố.
Địch ở vào thế bị bao vây, bị chia cắt triệt để, khi bị ta đánh thì địch ở cả trong,
ngoài, xa, gần không thể ứng cứu lẫn nhau, làm cho tinh thần chúng vốn đã hoang mang
càng suy sụp trầm trọng. Nhất là, thế trận chiến dịch hoàn chỉnh nên đã tạo được hiệu suất
chiến đấu cao; đồng thời, phát huy gấp bội ưu thế lực lượng... Chẳng hạn, ở phía Đông, ta
áp sát Trảng Bom, sân bay Biên Hòa, thực hiện bao vây địch về phía Đông, sẵn sàng cắt Lộ
15, sông Lòng Tàu, sẵn sàng chia cắt địch giữa Sài Gòn với Bà Rịa-Vũng Tàu, chặn đường
ra biển, làm tê liệt sân bay Biên Hòa. Ở phía Bắc và Tây Bắc, ta giải phóng Bà Đen, Dầu
Tiếng, Chơn Thành, chia cắt địch giữa Sài Gòn, Tây Ninh với Sài Gòn, Bình Dương. Ở phía
Tây và Tây Nam, chủ lực Quân khu 8, Quân khu 9 áp sát sẵn sàng chia cắt địch ở Cái Vồn,
Trung Lương, Cai Lậy, Sư đoàn 5 của ta đứng ở Tây Bắc lộ 4, dọc Vàm Cỏ Tây xuống sát
Tân An-Bến Lức, lực lượng Quân khu 8 đứng chắc ở Nam Long An, sẵn sàng cắt kênh Chợ
Gạo. Riêng đồng bằng vùng ven và nội đô là hai vùng chiến lược được đặc biệt chú ý, ta đã
liên tục đánh phá “bình định” ở vùng ven, đẩy mạnh hoạt động đô thị, lần lượt đưa vào 6
trung đoàn đặc công, 1 lữ đoàn biệt động cùng với 2 trung đoàn, 5 tiểu đoàn bộ đội địa
phương của thành đội, vừa đánh phá “bình định”, vừa tạo chỗ đứng vững chắc, áp sát các
mục tiêu được phân công, vừa phát động quần chúng và làm nòng cốt cho quần chúng nổi
dậy.
Ngoài ra, thế chiến trường đã được tổ chức khá chu đáo, hậu cần chiến lược, chiến
dịch được chuẩn bị đầy đủ trước khi mở màn chiến dịch. 6 đoàn hậu cần được tổ chức chặt
chẽ vươn sâu theo các hướng tiến công của chiến dịch. Trước ngày nổ súng, có gần 60.000
tấn vật chất. Ngoài lượng vật chất cơ động mang theo của các quân đoàn, hệ thống kho tàng
chiến lược, chiến dịch, trạm xăng dầu, bệnh viện, bệnh xá trên các tuyến chiến lược, chiến
dịch đã triển khai xong. Cơ sở kỹ thuật sửa chữa xe, pháo cũng đã hình thành hoàn chỉnh
theo yêu cầu chiến đấu... Đây vừa là thế trận rất hiểm hóc, vừa là sự bố trí lực lượng hết sức
lợi hại và cũng là một yếu tố quan trọng trong cách đánh của Chiến dịch Hồ Chí Minh...
Gần 50 năm đã trôi qua, thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa
Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh, trong đó có những bài học kinh nghiệm về
nghệ thuật chiến dịch nói chung, nghệ thuật tạo sức mạnh về lực lượng và thế trận nói riêng
không chỉ có giá trị lịch sử, có ý nghĩa thời đại sâu sắc mà còn có tác dụng giáo dục truyền
thống, khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho các thế hệ người Việt Nam hôm nay
và mai sau. Đó cũng là những kinh nghiệm quý, có giá trị cả về lý luận và thực tiễn cần
được vận dụng sáng tạo, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
51

6.6 Page 56

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
PHẦN II
ĐỒNG NAI – 50 NĂM TRANG SỬ HÀO HÙNG
13. Chiến dịch lộ 3 - Mở rộng địa bàn Đông Bắc Xuân Lộc // Địa chí Đồng Nai.. –
Đồng Nai: Nxb. Đồng Nai.
T.3 : Lịch sử. – 2001. Tr. 354 357.
Cục diện chiến trường miền Nam từ mùa khô 1974 – 1975 có nhiều thay đổi. Trên
chiến trường miền Đông Nam bộ địch mất 2.373 đồn bót. Vùng giải phóng mở rộng từ Lộc
Ninh – Bình Long đến Bến Cát – Tây Ninh, Bà Rịa – Long Khánh Biên Hòa Sài Gòn.
Năm 1974 tại Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng, đồng chí Lê Duẩn – Bí thư
thứ nhất Trung ương Đảng kết luận:… Động viên những nổ lực cao nhất của toàn Đảng,
toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng
phát triển đến mức cao nhất. Tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân ngụy, đánh chiếm Sài Gòn
cũng như các thành thị khác… Giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cuộc cách
mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất nước nhà… Tạo mọi điều kiện
để đánh mạnh, thắng nhanh và thắng triệt để trong 2 năm 1975 – 1976([1][32]).
Thực hiện chủ trương của Đảng, Trung ương Cục, Bộ chỉ huy Miền, Bộ tư lệnh quân
khu 7, tỉnh ủy Biên Hòa – Bà Rịa – Long Khánh xác định mục tiêu: tập trung lực lượng ba
thứ quân, mở rộng địa bàn đông bắc thị xã Long Khánh, đánh rã bộ máy của địch và giải
phóng xã ấp quanh các thị xã Long Khánh – Bà Rịa – Biên Hòa chuẩn bị điều kiện bước
vào cuộc tổng tiến công và nổi dậy.
Tháng 11 năm 1974 Bộ Chỉ huy Miền ra quyết định thành lập sư đoàn 6 bộ binh trực
thuộc quân khu 7([2][33]) hoạt động phía bắc lộ 1. Đồng thời Bộ Chỉ huy Miền tổ chức lực
lượng đặc công 429 lại thành sư đoàn 2 đặc công (thay Đoàn 27). Sư đoàn gồm 7 trung đoàn
đặc công đánh bộ, đặc công nước, 1 trung đoàn cơ động sâu xuống vùng ven đô, bao quanh
Sài Gòn – Gia Định chuẩn bị cho phương án tổng công kích - tổng khởi nghĩa. Riêng phía
đông có ba trung đoàn 10, 113, 116 vừa độc lập tác chiến, vừa phối thuộc cho địa phương.
Sư đoàn 2 đặc công do đồng chí Nguyễn Văn Mây sư trưởng, Lê Bá Ước chính ủy.
Trong khi các lực lượng vũ trang địa phương tiến công địch dồn dập ở nhiều nơi thì
rạng sáng ngày 24 tháng 12 năm 1974 chiến dịch lộ 3 của quân khu bắt đầu mở màn. Hai
trung đoàn bộ binh của sư đoàn 6 cùng lực lượng vũ trang địa phương tiến công làm chủ hai
chi khu: Hoài Đức và Tánh Linh. Ta chặt đứt một “mắt xích” quan trọng trong hệ thống
phòng thủ phía bắc Xuân Lộc uy hiếp thị xã Long Khánh từ hướng bắc.
Phối hợp với chiến dịch lộ 3 đội biệt động thị xã Long Khánh và du kích trực tiếp
tiến công địch ở nội ô thị xã. Ngày 2 tháng 1 năm 1975 chiến sĩ biệt động Nguyễn Phú
Huỳnh trong một ngày ba lần tiến công địch ở các quán ăn và đường Hồng Thập Tự diệt và
làm bị thương hàng chục tên địch. Tiêu biểu cho lực lượng biệt động Long Khánh là nữ biệt
động Hồ Thị Hương. Ngày 18 tháng 1 năm 1975 Hồ Thị Hương cùng Nguyễn Thị Thận
nhận nhiệm vụ đánh quán ăn Viễn Đông. Chủ quán Viễn Đông là một tên an ninh quân đội
ngụy. Cảnh sát đặc biệt thường lui tới tại đây. Phương án tác chiến được tập dượt tỷ mỹ.
52

6.7 Page 57

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Khi đến sát mục tiêu, biết mìn hẹn giờ sắp nổ, Hương bảo Thận đứng ngoài. Cô ôm mìn lao
vào quán cho mìn nổ ([3][34]) làm mảng tường quán ăn sập và một số tên địch bị thương.
Hồ Thị Hương anh dũng hy sinh. Hồ Thị Hương đã nêu một tấm gương sáng ngời của
người biệt động trinh sát vũ trang mưu trí dũng cảm. Với nhiều chiến công xuất sắc Hồ Thị
Hương được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam phong tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Trước sức tiến công liên tục của ta, tiểu khu Long Khánh và Bộ tư lệnh sư đoàn 18 lo
sợ tăng cường bố trí phòng thủ thị xã Long Khánh. Ngày 6 tháng giêng năm 1975 ta giải
phóng thị xã Phước Long. Bị mất một tỉnh ở phía bắc Sài Gòn mà vẫn không có sự “phản
ứng thiết thực” nào của Mỹ, ngụy quân, ngụy quyền hoang mang lo sợ.
Ngày 17 tháng 3 năm 1975 giai đoạn 2 của chiến dịch lộ 3 bắt đầu. Ta đồng loạt
chiếm ngã ba Ông Đồn, núi Chứa Chan, đồi 52, với lối đánh hiệp đồng tác chiến chặt chẽ,
giữa đặc công với bộ binh, sau 1 ngày chiến đấu ta đã diệt toàn bộ địch ở Đồi 52. Ngày 18
tháng 3 tiểu đoàn 9 trung đoàn 33 đã làm chủ yếu khu quân sự Gia Ray, giải phóng ấp Gia
Ray và cắt đứt lộ 3. K8 Xuân Lộc và tiểu đoàn 3 trung đoàn 4 cùng lực lượng du kích tiến
công địch ở các ấp: Suối Cát, Lều Xanh, Mai Thọ Bích, Bình Phú… ta hoàn toàn làm chủ
cắt đứt đoạn quốc lộ 1 dài trên 5 km, diệt quân cứu viện. Tiểu khu Long Khánh đã điều 2
tiểu đoàn bảo an số 332 và 324 ứng cứu bị các lực lượng ta chặn đánh diệt 2 đại đội. Sau 4
ngày đêm chiến đấu (từ 17 đến 21 tháng 3) ta quét sạch địch ở các mục tiêu trọng điểm, giải
phóng tỉnh lộ 3 từ Trà Tân đến ngã ba Ông Đồn, đến căn cứ 5 giáp Bình Thuận, làm chủ các
xã ấp trên quốc lộ 1.
Ngày 17 đến 20 tháng 3 lực lượng vũ trang tỉnh Tân Phú kết hợp một bộ phận sư
đoàn 7 đánh chiếm chi khu Định Quán, giải phóng quốc lộ 20 từ Lâm Đồng đến cầu La
Ngà.
Địch đang phải dốc toàn bộ lực lượng chống đỡ trên mặt trận tỉnh lộ 3, quốc lộ 1 và
quốc lộ 20. Tranh thủ thời cơ thị ủy Long Khánh chủ trương: giải phóng 4 ấp phía bắc thị xã
Long Khánh. Ta tiến công địch ở Bảo Vinh B rồi đến Bình Lộc, thứ tự phá từng “mắt xích”
tiến tới dứt điểm toàn bộ. Cán bộ binh vận vận động các gia đình binh lính ngụy, kêu gọi
con em họ trở về với nhân dân. Cuối tháng 3 năm 1975 các ấp Bình Lộc, Bảo Vinh A, Bảo
Vinh B, Suối Chồn hoàn toàn giải phóng. Cửa ngõ phía bắc thị xã Long Khánh đã mở:
Chuẩn bị cho sư đoàn 341 tiến công vào thị xã Long Khánh.
Để chuẩn bị cho cuộc tổng công kích, Bộ chỉ huy Miền tổ chức mặt trận cánh đông
gồm 3 trung đoàn đặc công 10, 113, 116, 3 đơn vị biệt động, tiểu đoàn địa phương Thủ Đức
do đồng chí Tống Viết Dương sư phó sư 2 làm chỉ huy trưởng, đồng chí Lê Bá Ước chính
ủy. Đây là những đơn vị sẽ phối thuộc cho quân đoàn 4 và quân đoàn 2 có nhiệm vụ đánh
chiếm các cây cầu, giữ cửa mở trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
---------------------------------
([1][32]) Lê Duẩn – Thư vào Nam – Nxb.Sự Thật 1985; tr. 368 – 369.
([2][33]) Sư đoàn do đồng chí Đặng Ngọc Sỹ làm tư lệnh trưởng. Đồng chí Nguyễn
Đăng Mai làm chính ủy, lực lượng gồm có trung đoàn 4 trung đoàn 33 (bộ binh) – ba tiểu
đoàn đặc công: d18, d19, d20 và 3 tiểu đoàn pháo binh: d22, d23, d24.
53

6.8 Page 58

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
([3][34]) Thời kỳ này biệt động Long Khánh thường sử dụng loại kíp mìn MY8 loại
này thường nổ chậm từ 30 phút đến 1 giờ từ lúc bắt đầu gắn kíp. Đòi hỏi người sử dụng phải
tính toán thời gian thật chuẩn xác.
14. Đỗ Trung Tiến. Bối cảnh tháng 3 / Đỗ Trung Tiến // http://laodongdongnai.vn.
2015. Ngày 21 tháng 1.
Sư đoàn 6 hoàn thành nhiệm vụ giai đoạn 1 giải phóng hai huyện Tánh Linh, Hoài
Đức trên tỉnh lộ 3 và quốc lộ 1 từ ấp Việt Kiều, Suối Cát đến Căn cứ 5. Bàn giao vùng giải
phóng cho lực lượng vũ trang địa phương và chính quyền cách mạng, toàn Sư đoàn 6 hành
quân về hướng Nam, Tây Nam thị xã Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh.
Dọc tỉnh lộ 2 từ Long Giao, Long Khánh đến Kim Long, Bà Rịa là vùng do ta làm
chủ. Vì thế, cả Sư đoàn hành quân đêm từ ngã ba Suối Cát về Sông Ray, đến đồn điền cao
su Cẩm Mỹ, vượt lộ 2 về các điểm tập kết an toàn. Lần đầu tiên trên đất Long Khánh, Sư
đoàn không chỉ hành quân bằng đi bộ truyền thống, mà còn có xe cơ giới thu được của địch,
pháo xe kéo…
Lần đầu tiên bộ đội Quân đoàn 4 hành quân bằng xe cơ giới về
giải phóng Xuân Lộc - Biên Hòa (Ảnh tư liệu Quân đoàn 4)
Trên các chiến trường mùa khô 1974 - 1975, quân giải phóng giành nhiều chiến
thắng quan trọng. Địch bị động, co cụm để chống đỡ thực sự. Cả tình báo của Mỹ và Việt
Nam Cộng hòa thời điểm này đều không thể biết ta sẽ đánh và sắp đánh ở đâu nữa.
Tại mặt trận đường 14 - Phước Long, qua đánh thăm dò phản ứng của Mỹ và mở
chiến dịch từ ngày 13-12-1974 đến 6-1-1975, quân giải phóng do Sư đoàn 7, được tăng
cường một số đơn vị của Sư đoàn 3, Sư đoàn 9 đã giải phóng Phước Long, Đồng Xoài, mở
thông hành lang đường Hồ Chí Minh đến Bù Gia Mập, nối liền Lộc Ninh tới Đồng Xoài về
Chiến khu Đ. Sư đoàn 7, Sư đoàn 341 và các đơn vị pháo binh, xe tăng trong đội hình Quân
đoàn 4 bắt đầu hành quân cơ giới về Chiến khu Đ. Địch phát hiện đại quân đi trên lộ ủi từ
Đồng Xoài về Chiến khu Đ, chúng cho máy bay khu trục đánh chặn ở suối Mã Đà.
54

6.9 Page 59

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Ngày 4-3, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây nguyên (B3) ra lệnh tấn công giải phóng thị xã
Buôn Ma Thuột. Quân đoàn 2 VNCH không nghĩ ta sẽ đánh Buôn Ma Thuột, nên ra sức
phòng thủ ở Pleiku và Kon Tum. Đến khi cần giải cứu Buôn Ma Thuột thì tất cả các ngả
đường đã bị quân giải phóng chốt chặn. Ngày 6-1, Buôn Ma Thuột được hoàn toàn giải
phóng. Ba ngày sau đó, Nguyễn Văn Thiệu đã có một quyết định được cho là sai lầm, đó là
rút toàn bộ quân lính trên địa bàn Tây nguyên về phòng thủ bờ biển, quyết định này dẫn đến
toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 VNCH bị tiêu diệt và tan rã hoàn toàn, trong cuộc rút chạy
trên đường số 7.
Đầu tháng 3-1975, tôi được Tư lệnh cho về căn cứ Sư đoàn 6 ở La Ngà, thu xếp toàn
bộ quân trang, quân dụng đưa về Bộ chỉ huy tiền phương tại lô cao su không tên, đồn điền
Ông Quế. Tư lệnh Hai Sỹ dặn vui: “Các chú về căn cứ La Ngà có gì gom hết, giải quyết
xong Xuân Lộc ta về Biên Hòa luôn”. Khi đó ở căn cứ Sư đoàn chỉ còn một tấn gạo, ít tài
liệu giấu trong thùng đạn đại liên, phim giấy ảnh và thuốc rửa ảnh. Tài sản của tôi quý nhất
có chiếc máy phóng ảnh chế bằng ống pháo sáng, rọi ảnh bằng bình ắc quy 6 vol, nên chỉ
phóng được cỡ ảnh 6 x 9cm. Thầm nghĩ, đồ nghề làm ảnh này mang về thành phố có mà
vứt…
Ngày 17-3, khi tôi còn ở căn cứ La Ngà, Sư đoàn 7 tấn công Chi khu Định Quán giữa
ban ngày. Trước đó, các ngã đường quốc lộ 20 từ La Ngà lên, từ Lâm Đồng xuống đều bị
Sư đoàn 7 chốt cứng. Tôi được biết, trong Định Quán, địch có một đại đội 377 Địa phương
quân. Sư đoàn 18 VNCH lường trước nguy cơ, đã tăng cường cho Định Quán Tiểu đoàn 2,
Trung đoàn 43. Khi các trận địa pháo trong Định Quán bị khống chế, địch ở đây được sự hỗ
trợ pháo binh từ hướng Phú Túc, nhưng Chi khu Định Quán chỉ cầm cự được hai ngày, số
tàn quân của Tiểu đoàn 2 bị quân giải phóng truy đuổi, chúng chạy về ngọn đồi phía Tây
Định Quán, gần cầu La Ngà, đám tàn quân này bị một chiếc F5 dội bom lầm lên đầu, số
sống sót tháo chạy về Núi Thị, phía Tây Xuân Lộc.
Định Quán hoàn toàn giải phóng, Sư đoàn 7 phát triển về hướng Lâm Đồng, mở rộng
thêm hành lang phía Bắc và Đông Bắc Xuân Lộc.
Ngày 18-3, đang ở hậu cứ Sư đoàn bờ sông Nam La Ngà, có một chuyện hy hữu, tôi
thấy khu rừng bên bờ bắc ồn ào người, họ men theo bờ sông đến chỗ thác có nước cạn, để
qua sông. Nhìn kỹ thấy toàn đồng bào, nam phụ lão ấu khoảng 100 người. Tôi đoán ngay là
dân Định Quán tản cư. Thực ra đồng bào Định Quán chủ yếu làm rẫy, nên chẳng lạ gì bộ
đội. Bà con đến thẳng căn cứ chúng tôi, có cả hai nhà sư mặc áo tu, ai cũng phờ phạc, nhếch
nhác. Tôi tập trung lại, dò xét xem có tàn quân trà trộn.
Tôi hỏi: Sao bà con không ở lại Định Quán mà chạy đi đâu?
Một đại diện lớn tuổi nói: Hai bên đánh nhau dữ quá, lần đầu tiên thấy xe tăng bộ đội
rượt lính ngụy. Bọn tôi chạy vào nhà thờ tránh đạn, pháo của nó từ hướng Phú Túc bắn vào
nhà thờ, chết nhiều người. Bọn tôi băng rừng vào đây để qua Long Khánh, giờ không biết
hướng nào?
- Sao bà con không tìm chỗ an toàn trong chòi rẫy, trụ lại Định Quán! Tôi cố giải
thích: Chiều nay bớt tiếng súng, giải phóng rồi, sắp tới đánh Long Khánh luôn, giải phóng
hết, bà con ở đâu ở đó chạy chi cho khổ!
55

6.10 Page 60

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Thực ra còn vài ngày nữa, ta tấn công cứ điểm Xuân Lộc thuộc tiểu khu Long
Khánh. Thị ủy và chính quyền đã rải tờ rơi kêu gọi đồng bào sơ tán, nếu để bà con Định
Quán vào Xuân Lộc thì nguy hiểm.
- Thế anh bộ đội cho hỏi đường sang Suối Nho hướng nào?, một người hỏi.
Tôi chỉ: Hướng Tây, nhưng phía Suối Nho và đường 20 cũng sắp bị bộ đội tấn công.
Tốt nhất là quay lại Định Quán. Thôi, tối nay bà con ở lại đây với tụi tôi, tối rồi, mai tính.
Thế bà con có gì ăn chưa?
- Từ hôm qua tới giờ có gì ăn đâu!
Hèn chi, tôi thấy mấy đứa bé khóc hoài. Tôi bàn với đồng chí Dinh cho bà con 100kg
gạo, bố trí nấu ăn, còn lại mai mang theo đường.
Trời tối nhanh, hai sư thầy gặp tôi xin cho tụng kinh. Nhớ đến chính sách, tôi đồng ý
và cho mượn chiếc chiếu trải giữa căn nhà lợp lá trung quân để các thầy ngồi tụng. Cũng
may, các thầy còn kịp mang theo được chiếc mõ. Buổi tụng kinh có một không hai trong
căn cứ Sư đoàn trong rừng, không có tượng hay ảnh Phật, không có nhang đèn, hai sư thầy
ngồi thiền và tụng chay những bài quen thuộc, họ cầu cho nhanh chóng hòa bình, quốc thái
dân an…
Cũng trong buổi tối bất đắc dĩ, chúng tôi phải tiếp nhóm thanh niên nam, nữ còn rất
trẻ, họ năn nỉ chúng tôi cho nhập ngũ, đi theo bộ đội, hứa việc gì cũng làm, không sợ hy
sinh gian khổ.
- Các em làm gì, ở đâu?, tôi hỏi.
- Tụi em ở miền Tây lên Định Quán làm rẫy mướn!
Giữa lúc này tôi phải từ chối, vì cơ quan tôi là đơn vị chỉ huy tác chiến, không thể
nhận người lạ. Bàn giao cho các đơn vị cũng không thể, vì họ đang chiến đấu rất khẩn
trương, trong khi các em chưa được huấn luyện, rất nguy đến tính mạng.
Tôi giải thích: Các anh ngày mai có nhiều việc rất khẩn trương, không thể nhận các
em được. Sáng mai, các em quay về Định Quán, đến đăng ký với cơ quan chính quyền cách
mạng. Giải phóng rồi, nhiều việc lắm!
Sáng hôm sau, đoàn người di tản dậy sớm, lên đường. Có lẽ, do tôi dọa nên họ sợ
không hỏi đường về Long Khánh, mà hỏi về ấp Suối Nho. Tôi chỉ qua sông La Ngà theo
hướng bắc là tới Gia Canh, Định Quán, còn ở bên đây đi cặp mí sông theo nước chảy xuôi
là tới ấp Suối Nho, ở đó, không được về hướng Kiệm Tân, đường 20. Tôi cố tình ngăn cản
bà con di tản đến nơi chỉ một vài ngày nữa có chiến sự. Ba sư đoàn quân Giải phóng đang
tập kết quân ở các hướng này, rất khó xử cho bộ đội, rất nguy hiểm cho người dân giữa hai
làn đạn.
15. Đỗ Trung Tiến. Chiến dịch Xuân Lộc - Long Khánh / Đỗ Trung Tiến //
http://laodongdongnai.vn. 2015. Ngày 21 tháng 1.
Trong đội hình Quân đoàn 4 tấn công cứ điểm Xuân Lộc, gồm có Sư đoàn 7, Sư
đoàn 6, Sư đoàn 341 (gọi tắt Sư 1 mới) và các đơn vị hỏa lực tăng cường pháo binh, xe tăng.
Giữa chiến dịch, Quân đoàn 4 được Quân đoàn 2 tăng cường Trung đoàn 95b. Sư đoàn 6
của Quân khu miền Đông là đơn vị tại chỗ, nên chiếm lĩnh trận địa được giao sớm nhất. Sư
56

7 Pages 61-70

▲back to top

7.1 Page 61

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
đoàn 6 bao vùng toàn bộ hướng Nam, Tây Nam Xuân Lộc từ tỉnh lộ 2 sang quốc lộ 1 từ Dâu
Giây đến Bàu Cá, Hưng Lộc.
Trước trận Xuân Lộc, tình hình địch có nhiều thay đổi. Sau khi rút khỏi Tây nguyên,
Nguyễn Văn Thiệu cho rút Sư đoàn dù ở Vùng 1 về Vùng 3 để phòng thủ miền Ðông Nam
bộ và Sài Gòn, khiến các lực lượng địch còn lại ở Vùng 1, Vùng 2 hoang mang, dao động
tột độ.
Phòng thủ phần còn lại của
Nam bộ, địch có các Sư đoàn bộ
binh 18, 5 và 25, nhưng qua
những trận đánh trong tháng 3,
quân số của các sư đoàn này bị
tiêu hao nghiêm trọng. Sư 18 của
Lê Minh Ðảo là đơn vị chủ công,
trong khi nhiều tiểu đoàn chỉ còn
khoảng 450 quân.
Ðầu tháng 4, quân Giải
phóng nghi binh hướng Tây Ninh;
các Sư đoàn 5, 25, một bộ phận
của Trung đoàn 48 của Sư 18
Xe tăng và bộ binh Quân đoàn 4 tấn công cứ điểm
Xuân Lộc - Long Khánh
VNCH bị hút về hướng Tây Ninh. Khi địch quay về Xuân Lộc, toàn bộ đoạn quốc lộ 1 từ
Bàu Cá đến Dầu Giây đã bị Trung đoàn 33, Sư đoàn 6 của ta chốt cứng.
Ngày 3-4-1975, Quân đoàn 4 quân giải phóng bắt đầu hình thành thế trận bao vây cứ
điểm Xuân Lộc. Sư đoàn 7 đang hành quân trên quốc lộ 20 tiến về Ðà Lạt, được lệnh quay
trở lại Xuân Lộc.
Ngày 6-4, bản đồ tác chiến cho thấy các đơn vị quân giải phóng đã sẵn sàng ở vị trí
chiến đấu: Sư đoàn 341, Trung đoàn 266 sẽ đánh chiếm các mục tiêu trong thành phố,
Trung đoàn 270 đánh chiếm các căn cứ ở Kiệm Tân và Núi Thị; Trung đoàn 273 là lực
lượng trù bị. Hai Trung đoàn 33 và 4 của Sư đoàn 6 vây Xuân Lộc ở hướng Nam, chốt chặn
địch tiếp viện trên quốc lộ 1 khu vực Bàu Cá, Hưng Lộc và tỉnh lộ 2; vận động đánh địch
khu vực Dầu Giây. Sư đoàn 7 chịu trách nhiệm hướng Bắc, hướng Ðông Xuân Lộc, Trung
đoàn 165 đánh thẳng vào Bộ Chỉ huy Sư 18 ngụy do Trung đoàn 52 trấn giữ; Trung đoàn
209 đánh chiếm tuyến quốc lộ 1 từ Suối Cát đến Tân Phong; Trung đoàn 141 làm lực lượng
trù bị. Các trung đoàn pháo mặt đất và phòng không chịu trách nhiệm hỗ trợ tối đa hỏa lực.
Ðêm ngày 8 rạng ngày 9-4, chiến dịch bắt đầu. Pháo binh ta với đủ loại đã bắn cấp
tập 10 ngàn quả đạn pháo các loại vào cứ điểm Xuân Lộc. Khi pháo dừng bắn, các mũi nhọn
có xe tăng hỗ trợ ào ạt tấn công các mục tiêu trong thị xã.
5 giờ 40 sáng, Trung đoàn 165, Sư đoàn 7 tấn công dữ dội vị trí của Tiểu đoàn 1 và
3, Trung đoàn 43 ngụy; cùng lúc Trung đoàn 209 đánh thẳng vào Tiểu đoàn 82 Biệt động
quân từ hướng Ðông. Hướng tây, hai tiểu đoàn của Trung đoàn 266, Sư đoàn 341 giao tranh
ác liệt trong thị xã với hai tiểu đoàn Ðịa phương quân.
57

7.2 Page 62

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Ngoài thị xã, những trận đánh phối hợp của Sư đoàn 341 và Sư đoàn 6 đạt hiệu quả
cao. Mặt trận hướng Tây, Trung đoàn 270 Sư đoàn 341đánh chiếm các căn cứ Núi Thị và
Kiệm Tân. Trung đoàn 4, Sư đoàn 6 tấn công căn cứ ấp Trần Hưng Ðạo, chiếm giữ đèo Mẹ
Bồng Con. Trung đoàn 33 hỗ trợ Trung đoàn 4 đánh căn cứ Hưng Nghĩa và Hưng Lộc, giữ
vững chốt chặn quân chi viện của địch từ hướng Biên Hòa. Sau ba ngày công phá các tuyến
tử thủ của địch trong Xuân Lộc, bộ đội Sư đoàn 7 và 341 giành giật từng căn nhà, góc phố,
chiếm nhiều mục tiêu quan trọng nhưng không chắc chắn, do hầm hào bong ke của tiểu khu
và căn cứ Sư đoàn 18 khá kiên cố. Hướng tiến quân trực diện của xe tăng, bộ binh Sư đoàn
7 có ruộng, sình lầy không thuận lợi.
Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 VNCH quyết định đưa Lữ đoàn 3 kỵ binh
khai thông quốc lộ 1, giải cứu Xuân Lộc. Lữ đoàn 3 kỵ binh tổ chức ba mũi xung kích gồm
ba chiến đoàn, mỗi chiến đoàn gồm một chi đoàn xe tăng M48, kèm theo một tiểu đoàn biệt
động quân và một đội pháo binh. Lữ đoàn 3 kỵ binh từng là lực lượng xung kích của quân
VNCH trên các mặt trận.
Ngày 11-4, đoàn chiến xa M48 địch theo quốc lộ 1, nhanh chóng đến Hưng Lộc liền
đụng độ ngay chốt chặn của Trung đoàn 33, Sư đoàn 6. Trung đoàn 33 vừa chốt cứng mặt
đường, vừa vận động tấn công địch. Một mũi khác của địch bọc vòng phía sau, ba tiểu đoàn
biệt động quân được gọi lên hòng bứng chốt của ta bị thiệt hại rất nặng, buộc phải quay lại
Trảng Bom.
Trong khi Lữ đoàn 3 kỵ binh địch không thể giải cứu Xuân Lộc, ngày 12-4 Bộ Tổng
tham mưu và Quân đoàn 3 VNCH điều Lữ đoàn nhảy dù số 1, gồm 4 tiểu đoàn bộ binh và 1
tiểu đoàn pháo binh dù, chúng chia 3 mũi nhảy trực thăng xuống Xuân Lộc. 14 giờ cùng
ngày, không quân địch sử dụng máy bay C130 ném hai quả bom CBU-55, một trong những
loại vũ khí hạt nhân có sức hủy diệt hàng loạt xuống Xuân Vinh, sát thị xã Xuân Lộc, gây
thương vong khoảng 200 bộ đội và người dân.
Ngày 13-4, Sở Chỉ huy Sư đoàn 6 nhận được lệnh từ Quân đoàn 4 về thay đổi cách
đánh. Theo đó, chuyển thế bao vây tiêu diệt địch trong Xuân Lộc, Sư đoàn 6 và Trung đoàn
95b chịu trách nhiệm tiêu diệt các căn cứ còn lại trên quốc lộ 20, từ Túc Trưng đến Dầu
Giây.
Sau khi không quân VNCH ném hai quả bom CBU xuống mặt trận Xuân Lộc, tôi mở
radio nghe được Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố báo chí: “Khả năng chiến đấu của quân lực
VNCH đã được phục hồi”. Lê Minh Ðảo, Tư lệnh Sư 18 thì nói rằng: “Việt Cộng muốn qua
Long Khánh thì phải bước qua xác của Ðảo này”. Tổng thống Ford mạnh miệng xác nhận
với Quốc hội Mỹ để được chấp nhận khoản viện trợ 722 triệu USD năm 1975 cho VNCH:
“Quân đội Nam Việt Nam rất muốn chiến đấu. Tại Xuân Lộc, mặc dù quân số ít hơn, nhưng
họ đã chiến đấu rất anh dũng, đã giữ vững vùng đất của họ và đã gây thiệt hại nặng nề lên
quân địch…”. Những lý lẽ của Thiệu và Ford không thể thuyết phục được các nhà chính trị
Mỹ đã quá mỏi mệt về cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam. Thượng nghị sĩ Jacob Javits
là đại diện phái đa số ngày 14-4 có câu trả lời rất lạnh lùng: “Tôi sẽ thuận cho quý ngài một
ngân khoản lớn để tổ chức một cuộc di tản, nhưng không một xu nào quân viện cho Thiệu”.
58

7.3 Page 63

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Ngày 15-4, phản ứng máy bay địch ném bom CBU và không kích các trận địa ở
Xuân Lộc, lần đầu tiên đại pháo 130 ly quân giải phóng đặt ở Hiếu Liêm bắn phá cấp tập
sân bay Biên Hòa, làm cho sân bay Biên Hòa không hoạt động được, địch phải chi viện yếu
ớt bằng không quân từ sân bay Trà Nóc. Cùng ngày, Trung đoàn 4, Sư đoàn 6 và Trung
đoàn 95b đánh tan Chiến đoàn 52, Chi đoàn 33 thiết giáp tại Túc Trưng, Kiệm Tân, Dầu
Giây, căn cứ Nguyễn Thái Học, giải phóng hoàn toàn tuyến phòng thủ cuối cùng phía tây
trên đường 20 từ Túc Trưng đến Dầu Giây, thu và phá hủy toàn bộ xe thiết giáp, 12 khẩu
pháo, bắt nhiều tù binh. Hai tiểu đoàn địch thuộc Chiến đoàn 52 chỉ còn sống sót 200 tàn
quân.
Ngày 16 và 17-4, các đợt phản công cuối cùng của địch tăng viện cho Xuân Lộc tiếp
tục bị Trung đoàn 33, Sư đoàn 6 chặn đứng. Xung quanh Xuân Lộc, các Trung đoàn 43, 48,
Lữ đoàn 1 dù của ngụy liên tục bị Sư đoàn 7 và 341 quân giải phóng tập kích tiêu hao.
Ngày 18-4, các tuyến phòng thủ của VNCH tại Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân bị
phá vỡ. Lữ đoàn xe tăng 203 đơn vị dẫn đầu của Quân đoàn 2 quân giải phóng đã có mặt ở
rừng lá, chỉ cách Gia Ray, Xuân Lộc khoảng 10km. Quân đoàn 2 được bộ đội địa phương
hướng dẫn hướng hành quân đến ngã ba Suối Cát vào Sông Ray ra Xuân Mỹ. Quân đoàn 2
với hàng ngàn xe tăng, xe cơ giới vào đến miền Ðông Nam bộ an toàn. Ðến lộ 2, Quân đoàn
2 chia hai hướng tiến quân: Một theo lộ 2 giải phóng Bà Rịa - Vũng Tàu, một mũi qua Cù
Bị về hướng căn cứ Nước Trong, Long Thành, Nhơn Trạch.
Trước sức ép của quân giải phóng, ngày 19-4, Lê Minh Ðảo Tư lệnh Sư 18 xin lệnh
Bộ Tổng tham mưu VNCH rút khỏi Xuân Lộc để phòng thủ Biên Hòa, lập tức được chấp
thuận và yêu cầu để lại một tiểu đoàn nghi binh, giữ bí mật. Khuya 20-4, trong đêm tối,
dưới trời mưa tầm tã, Lê Minh Ðảo chỉ huy đoàn xe quân sự các loại vận chuyển các đơn vị
còn lại trong Xuân Lộc, rút quân theo lộ 2, sau đó vòng về Biên Hòa. Toán quân rút chạy
sau cùng bị một tiểu đoàn của Tỉnh đội Long Khánh phát hiện tiêu diệt gần hết, viên Ðại tá
Tỉnh trưởng Phạm Văn Phúc bị thương nặng, bị bắt, Trung tá Phó tỉnh trưởng chết ngay tại
chỗ. Thị xã Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh được hoàn toàn giải phóng.
16. Đỗ Trung Tiến. Đường về Biên Hòa / Đỗ Trung Tiến //
http://laodongdongnai.vn. 2015. Ngày 21 tháng 1.
Trong khi Lê Minh Đảo khốn khổ chỉ huy đám tàn quân rút khỏi Xuân Lộc, Quân
đoàn 4 quân giải phóng được lệnh triển khai đội hình Chiến dịch Hồ Chí Minh. Nhiệm vụ
Quân đoàn là xây dựng cánh quân hướng đông, khai thông quốc lộ 1, giải phóng Biên Hòa,
tiến về Sài Gòn.
Chiều ngày 21-4-1975, tôi mở đài phát thanh Sài Gòn và được nghe thông báo, tối
đó, đài phát thanh và truyền hình Sài Gòn sẽ trực tiếp nội dung Tổng thống VNCH Nguyễn
Văn Thiệu đọc diễn văn quan trọng. Đúng 19 giờ 30, anh em trong sở chỉ huy cùng nghe
qua radio. Mở đầu, ông Thiệu kể công về 10 năm làm tổng thống, với lòng yêu nước thương
dân, nhưng lực bất tòng tâm. Về chiến sự, ông cho rằng: “Tại một vài nơi quân đội của
chúng ta đã chiến đấu rất dũng cảm, nhưng tôi cũng phải nhìn nhận rằng có một vài cấp lãnh
đạo quân đội, không phải tất cả, đã tỏ ra hèn nhát”. Để thanh minh cho sự yếu kém của quân
59

7.4 Page 64

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
đội, ông Thiệu cho rằng, quân của ông ta không yếu kém về tinh thần mà do thiếu quân,
thiếu vũ khí. Ông so sánh: “Chỗ nào chúng ta có một sư đoàn thì Cộng sản có hai. Chỗ nào
chúng ta có mười chiến xa thì Cộng sản có hai chục. Quân đội chúng ta mất đi 60% khả
năng tác chiến và khả năng di động. Chúng ta không được sự yểm trợ ồ ạt của không lực
nữa và hỏa lực của chúng ta ở trận địa kém hơn hỏa lực của Cộng sản quá nhiều”.
Bài diễn văn ông Thiệu đổ thừa lý do VNCH thua trận là do Mỹ: “Thái độ vô nhân
đạo của Hoa Kỳ là thái độ của một cường quốc lớn đang trốn tránh trách nhiệm của mình…
Từ chối giúp đỡ một nước đồng minh, bỏ rơi một nước đồng minh như thế là vô nhân đạo”.
Quá bức xúc bằng một giọng bực tức, chua chát và đầy kích động, ông Thiệu gào to
trong khi phát thanh trực tiếp: “Không bao giờ tưởng tượng nổi là tôi có thể chứng kiến
trong một thời gian nào đó, tấn bi kịch của những sự trả giá bẩn thỉu đang diễn ra bên trong
tòa nhà Quốc hội Hoa Kỳ. Không bao giờ tôi tưởng tượng nổi một người như Kissinger lại
có thể đưa dân tộc Việt Nam mình vào một định mệnh thảm khốc như ngày hôm nay”!
Sau 53 phút đọc diễn văn, đúng 20 giờ 30 phút, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn
Thiệu tuyên bố từ chức, ông ta giao trọng trách cho Tổng thống mới Trần Văn Hương.
Trước đó, ngày 14-4, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đồng ý đổi tên Chiến dịch
Giải phóng Sài Gòn là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Tham gia chiến dịch có 5 cánh quân với 20
sư đoàn. Trước khi vào chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có mệnh lệnh nổi tiếng:
“Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa; tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới
mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng”. Mệnh lệnh này được quán triệt
trong toàn quân, được dán trên mũ cối của cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 4.
Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu từ ngày 26-4. Bước vào chiến dịch, Quân đoàn 4 có
3 sư đoàn và một lữ đoàn bộ binh, một trung đoàn phòng không hỗn hợp, một tiểu đoàn
pháo 130mm, ba tiểu đoàn xe tăng - thiết giáp, quân số quân đoàn khoảng 30.000 bộ đội.
Trước mắt, quân đoàn phải đánh chiếm tuyến phòng thủ Trảng Bom, Biên Hòa, Hố Nai gồm
cả sân bay và Căn cứ Quân đoàn 3 VNCH.
Hướng tiến quân chủ yếu của Quân đoàn 4 theo quốc lộ 1. Quốc lộ 1 kể cả xa lộ Biên
Hòa thời kỳ 1975 rất hẹp, chỉ bằng nửa bây giờ. Địch phòng thủ trên tuyến đường này dày
đặc: Hai trung đoàn rút khỏi Xuân Lộc của Sư 18 giữ Bàu Cá, Trảng Bom đến Suối Đĩa; Lữ
đoàn 3 thiết giáp giữ Biên Hòa; lữ đoàn Thủy quân lục chiến giữ Long Bình, không kể các
đơn vị nhỏ lẻ và quân địa phương. Toàn bộ lực lượng địch dưới sự chỉ huy của tướng Lê
Minh Đảo. Sau khi rút khỏi Xuân Lộc, Đảo được phong thiếu tướng để kích lệ, nên rất say
máu tử thủ.
Tuy nhiên, hướng tiến quân hướng đông của Quân đoàn 4 có nhiều thuận lợi, vì
Quân đoàn 2 đang triển khai đánh địch ở hướng Đông Nam, trên quốc lộ 15 (QL51), hai
quân đoàn cùng đánh bại phòng tuyến của địch ở hướng Đông, Đông Nam sẽ cùng tiến quân
vào giải phóng Sài Gòn qua cầu Đồng Nai.
17 giờ ngày 26 - 4, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu, một cuộc pháo kích dữ dội, liên
tục của 20 tiểu đoàn pháo binh của Quân đoàn 2, 3, 4 vào các căn cứ địch ở Hố Nai, Biên
Hòa, Nước Trong, Long Thành, Nhơn Trạch, Đức Thạnh, Bà Rịa, Đồng Dù, Trảng Bàng,
60

7.5 Page 65

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Gò Dầu… Trận pháo kích kéo dài gần 60 phút làm chấn động thành phố Sài Gòn. Pháo binh
địch phản ứng lẻ tẻ rồi hoàn toàn bị dập tắt.
Hướng Quân đoàn 2, Sư đoàn 304 ngay trong trận mở màn đã tấn công cụm cứ điểm
Long Thành - Nước Trong, đánh bật Lữ đoàn 468 Thủy quân ra khu rừng cao su, bắn cháy
20 xe tăng xe bọc thép, bắn rơi 4 máy bay A-37 và 1 chiếc HU-1A. Tại lộ 2, Sư đoàn Sao
Vàng chiếm được Ngãi Giao, Bình Giã, Núi Đất, Bà Rịa; phối hợp lực lượng địa phương
giải phóng Long Điền, Đất Đỏ, Xuyên Mộc. Chiều 29-4, Sư đoàn 3 đánh chiếm giải phóng
thị xã Vũng Tàu.
Ngày 27-4, Sư đoàn 304 trở về Long Thành, phối hợp với Sư đoàn 325, được sự hỗ
trợ hỏa lực mạnh của Lữ đoàn 203 tăng thiết giáp tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm Nước Trong,
trường bộ binh, ngã ba Thái Lan, Long Thành, làm chủ quốc lộ 15. Ngày 28-4, căn cứ Tuy
Hạ, Nhơn Trạch bị Sư đoàn 304 đánh chiếm, Lữ đoàn pháo binh 164 thiết lập trận địa tại
đây, bắt đầu bắn phá sân bay Tân Sơn Nhất.
Hướng Quân đoàn 4, từ 4 giờ sáng 27-4, chậm hơn một ngày, Sư đoàn 6 và Sư đoàn
341 tấn công cứ điểm Trảng Bom, Suối Đỉa. Sau 4 giờ giao tranh, yếu khu Trảng Bom bị
quân Giải phóng giải phóng làm chủ, 500 binh lính phòng thủ ở đây bị bắt làm tù binh.
Trước khi đánh Trảng Bom, một đơn vị của Sư đoàn 341 đã khóa Suối Đĩa, vì thế số tàn
quân địch chạy về Suối Đĩa đã bị Sư đoàn 341 phục kích, 2.000 quân và khoảng 100 xe các
loại của địch bị Sư đoàn 341 tiêu diệt và bắt giữ.
Phải thừa nhận, Lê Minh Đảo sau khi rút khỏi Xuân Lộc, y về Biên Hòa lập thế trận
phòng thủ rất cứng. Sau trận Suối Đĩa, Sư đoàn 7 quân giải phóng được quân đoàn giao
nhiệm vụ thọc sâu, nhưng khi phát triển đến Hố Nai 4, Hố Nai 3 phải dừng lại, chờ Sư đoàn
6 và 341 đánh phối hợp. Trận tổng lực của Quân đoàn 4 cho đến nửa đêm 28-4, Lữ đoàn 3
thiết giáp và Lữ đoàn 4 dù của Lê Minh Đảo phải tháo chạy về Gò Vấp.
Ngày 29-4, tuyến phòng thủ cuối cùng của Quân đoàn 3 VNCH tại Biên Hòa bắt đầu
dao động. Pháo 130mm của Đoàn 75 từ Hiếu Liêm liên tục bắn phá sân bay Biên Hòa. Đoàn
đặc công 113 triển khai chiếm cầu Ghềnh, cầu Rạch Cát, cầu Hóa An. Tướng Nguyễn Văn
Toàn Tư lệnh Quân đoàn 3 VNCH đã chạy trốn, để lại cho Lê Minh Đảo ra sức cố thủ.
Tại Hố Nai, Long Bình, Tam Hiệp cửa ngõ thị xã Biên Hòa, Lê Minh Đảo gom được
số lính còn lại của Sư đoàn 18, hai tiểu đoàn thiết giáp và Liên đoàn Bảo an 318. Để chắc
ăn, Đảo cho đào 4 lớp hào chống tăng, phá sập cầu chui xe lửa (sau này gọi là cầu Sập), đặt
âm các xe tăng, tạo nhiều ổ đề kháng cố định và có thể cơ động.
Để dứt điểm tuyến phòng thủ cuối cùng của địch, Quân đoàn 4 sử dụng Trung đoàn
pháo binh hạ nòng tấn công trực diện, đồng thời Sư đoàn 6 có sự phối hợp hai trung đoàn
266, 270 tạt sườn đánh chiếm sân bay Biên Hòa, căn cứ Quân đoàn 3, Sở Chỉ huy Sư đoàn 5
không quân, trận địa pháo Hốc Bà Thức, Căn cứ Long Bình… 4 giờ sáng ngày 30-4 xe tăng,
bộ binh Sư đoàn 7 Quân đoàn 4 đến được cầu mới Hóa An, nhưng một nhịp cầu đã bị địch
phá sập, cầu Ghềnh yếu không qua được, đoàn xe tăng phải quay lại xa lộ Biên Hòa để qua
cầu Đồng Nai.
Tại ngã tư Tam Hiệp (Cổng 10 Long Bình), Lê Minh Đảo cố gắng lập tuyến phòng
ngự. Cứ điểm cuối cùng này bị tiêu diệt lúc 11 giờ ngày 30-4-1975.
61

7.6 Page 66

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Thị xã Biên Hòa hoàn toàn được giải phóng trong niềm vui tột độ của quân và dân ta.
Sư đoàn 6 Quân khu miền Đông gồm Trung đoàn 33, Trung đoàn 4 và các đơn vị trực thuộc
sư đoàn được lệnh dừng quân. Sư đoàn làm nhiệm vụ truy quét tàn quân, quản lý các căn cứ
quân sự lớn ở Biên Hòa và Bà Rịa - Vũng Tàu, công tác quân quản.
Sư đoàn 7, Sư đoàn 341 và các đơn vị hỏa lực Quân đoàn 4 hội quân cùng Quân đoàn
2 tại ngã tư Vũng Tàu, cầu Đồng Nai thần tốc tiến về Sài Gòn. Trung đoàn 141 của Sư đoàn
7 có nhiệm vụ quân quản Dinh Độc Lập, sau khi Lữ đoàn xe tăng 203 của Quân đoàn 2 húc
đổ cánh cổng dinh lúc 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975.
Thị xã Biên Hòa rợp cờ giải phóng, cờ đỏ sao vàng. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 6 về tiếp
quản căn cứ Bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 của Lê Minh Đảo tại Long Bình (trên nền đất của Công
ty Donafoods ngày nay). Khi vào căn cứ, tôi thấy nhà làm việc của Đảo sát với hầm ngầm
chỉ huy bê tông cốt thép kiên cố, đèn vẫn sáng, máy điều hòa vẫn hoạt động, bộ quần áo
tướng hai sao mang tên Lê Minh Đảo khi y trốn chạy không dám mặc, còn nguyên trên mắc
áo.
Trong ngày và đêm 30-4, Đài Phát thanh Giải phóng liên tục thông báo chính sách
khoan hồng của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, kêu gọi
binh lính, ngụy quân, ngụy quyền của VNCH buông súng đầu hàng, nhưng trong ngày đã có
5 viên tướng ngụy tự bắn vào đầu, còn tướng Lê Minh Đảo đã chiến đấu đến cùng ngay tại
cửa ngõ Biên Hòa, để sau đó ra trình diện chính quyền cách mạng. Tướng Đảo có nhiều tội
ác ở An Lộc, Bình Long và Xuân Lộc, Long Khánh… nhưng ông ta vẫn được hưởng chính
sách khoan hồng, học tập cải tạo 17 năm, năm 1994 được định cư ở Mỹ theo diện HO.
Ngày 30-4-1975, cơ quan Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu miền Đông trong Chiến khu
Đ về tiếp quản thị xã Biên Hòa, trong niềm vui miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất
đất nước. Cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc giành độc lập dân tộc, quân và dân ta
phải trải qua 10.000 ngày trường kỳ và gian khổ. Sự hy sinh xương máu vô cùng to lớn,
không thể nào quên.
17. Đỗ Trung Tiến. Sư đoàn 6 ra quân đánh thắng trận đầu / Đỗ Trung Tiến //
http://laodongdongnai.vn. 2015. Ngày 21 tháng 1.
…Căn cứ Sư đoàn 6 tháng 11-1974 đứng chân ở khu rừng rậm, phía dưới thác trời
hướng Nam sông La Ngà. Sư đoàn 6 có hai Trung đoàn E33 và E4, các Tiểu đoàn Đặc công
18, 19, 20 được tăng cường từ Đoàn đặc công 429, Sư đoàn 7, Sư đoàn 9.
Trong hai năm 1973 - 1974, quân và dân miền Nam đã đánh thắng hầu hết các cuộc
hành quân lấn đất của địch, mở rộng vùng giải phóng, ép địch vào thế phòng ngự. Cuối năm
1974, tình hình chiến trường có nhiều chuyển biến quan trọng. Tháng 10-1974 và tháng 1-
1975, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp quyết định mục tiêu giải phóng
miền Nam trong hai năm 1975 - 1976, dự kiến nếu có thời cơ sẽ giải phóng miền Nam trong
năm 1975.
Cùng thời điểm tái lập các Quân khu, Quân đoàn 4 được thành lập. Sư đoàn 6 của
Quân khu miền Đông trong đội hình Quân đoàn 4. Phối hợp với mặt trận đường 14 Phước
Long, Sư đoàn 6 được Bộ Tư lệnh Miền, Khu ủy và Quân khu giao nhiệm vụ phối hợp
62

7.7 Page 67

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Trung đoàn Sông Mao Quân khu 6, tiêu diệt hai chi khu Hoài Đức và Tánh Linh thuộc tỉnh
Bình Tuy, sau đó phát triển tấn công các căn cứ Gia Ray, từ căn cứ 1 đến căn cứ 5 dọc quốc
lộ 1, phát triển sang hướng tỉnh lộ 2.
Nhiệm vụ quan trọng này phải hoàn thành trong tháng 3, mở rộng hành lang xung
quanh thị xã Xuân Lộc 3 mặt, nối liền hướng bắc Xuân Lộc với Định Quán sang đường 14,
tạo điều kiện Quân đoàn 4 thực hiện đợt 2 tấn công cứ điểm Xuân Lộc. Thủ trưởng, Chính
ủy các Trung đoàn, các Tiểu
đoàn trực thuộc về nhận nhiệm
vụ ở cơ quan Bộ Tư lệnh Sư
đoàn 6 ở căn cứ La Ngà. Tư
lệnh Hai Sỹ (Đặng Văn Sỹ)
khái quát tình hình nhiệm vụ
toàn chiến trường miền Nam,
nhiệm vụ cụ thể của sư đoàn,
của từng đơn vị. Tư lệnh đánh
giá thuận lợi, đó là các đơn vị
của sư đoàn đều hoạt động ở
địa bàn quen thuộc, không lạ gì
đối tượng tác chiến, địch đang Công binh làm cầu vượt sông, suối trong chiến khu Đ phục
ở thế phòng thủ. Có điều rất
vụ chiến dịch giải phóng Định Quán - Xuân Lộc
khó khăn đó là đánh địch trong
(Ảnh tư liệu Quân đoàn 4)
thời điểm phối hợp các mặt trận, với thời gian nhất định phải dứt điểm từng mục tiêu, sắp
tới sư đoàn còn phải biết hợp đồng binh chủng cấp quân đoàn, có pháo xe kéo và tăng thiết
giáp hỗ trợ. Chính ủy Bảy Mai (Nguyễn Đăng Mai) nhắc nhở cần làm tốt công tác chính trị,
tư tưởng trong cán bộ, chiến sĩ, bàn thảo thấu đáo trong cấp ủy, chỉ được bàn cách đánh và
đánh thắng bảo đảm tiến độ, làm thế nào để hạn chế thấp nhất thương vong, cần phải
nghiêm khắc rút kinh nghiệm những trận đánh trước đây ở tỉnh lộ 2 để thương vong nhiều.
Lần đầu tiên tôi nghe ông Bảy nói: “Các đồng chí thấy không, chiến sĩ mới bổ sung cho các
đơn vị còn quá trẻ, các bà mẹ ở hậu phương giao con cho chúng ta không phải là vô tận,
không thể chấp nhận sự yếu kém trong chỉ huy dẫn đến tổn thất”. Cả phòng họp bỗng chốc
im lặng, xúc động. Nhiều nỗi niềm khó tả về những trận quyết chiến, quyết thắng cuối cùng
này.
Cùng thời điểm Sư đoàn 6 chuẩn bị phương án tác chiến, công binh và hậu cần của
Sư đoàn, của Quân khu và các đơn vị bạn bí mật làm cầu đường các khu vực: Đồng Xoài
qua suối Mã Đà, từ Bà Hào đến phía trên Tà Lài, bắc cầu phao qua sông Đồng Nai, từ Định
Quán qua sông La Ngà về điểm tập kết ở khu rừng Thọ Vực, Suối Rết Long Khánh.
Trước trận mở màn, toàn bộ các cơ quan chỉ huy, tác chiến của Sư đoàn 6 chuyển về
căn cứ tiền phương tại khu rừng Trảng Táo. Anh Tám Đậm, Trưởng ban hai (sau này tách
tỉnh Đồng Nai, Đại tá Tám Đậm có thời kỳ Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự Bà Rịa -
Vũng Tàu) cùng mấy trinh sát giả quân cảnh ngụy chặn xe đò ở lộ 3, bắt cóc một lính ngụy
63

7.8 Page 68

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
về phép để điều tra. Tên lính khai lực lượng địch, khu vực đồn trú khá trùng khớp với kết
quả điều nghiên trước đó.
Bộ đội Quân đoàn 4 vượt sông Đồng Nai về giải phóng Định Quán -
Xuân Lộc. (Ảnh tư liệu Quân đoàn 4)
Hoài Đức và Tánh Linh là hai căn cứ chi khu xa nhất của Tiểu khu Bình Tuy do Việt
Nam Cộng hòa (VNCH) quản lý. Hai chi khu này nằm sâu trong khu rừng Tánh Linh, giáp
ranh giới Định Quán và Madagui. Mỗi chi khu có một tiểu đoàn Địa phương quân, một đại
đội trinh sát, trung đội pháo binh, khoảng 3 - 4 trung đội nghĩa quân và chi cảnh sát.
Đầu tháng 12-1974, pháo binh ta bắt đầu pháo kích vào Tánh Linh và Hoài Đức. Giờ
G đêm 9 rạng ngày 10-12, được sự yểm trợ của pháo binh, bộ binh ta đồng loạt tấn công hai
chi khu. Tại Tánh Linh, Trung đoàn Sông Mao và Tiểu đoàn đặc công 200 của Quân khu 6,
có sự phối hợp của Sư đoàn 6 đánh chiếm đồi Lồ Ô, tịch thu hai khẩu pháo 105 ly, đồng
thời vây hãm chi khu. Đêm 25-12, ta làm chủ hoàn toàn Tánh Linh, bắt sống hai thiếu tá và
nhiều tù binh.
Cùng giờ đêm 9-12, hai Tiểu đoàn đặc công 18 và 19 Sư đoàn 6 tấn công Chi khu
Hoài Đức. Trước khi đánh Hoài Đức, có ý kiến cho rằng, đặc công chuyên đánh “mật tập”
nay giao cho đánh “cường tập” là mạo hiểm. Nhưng không ai hiểu lính đặc công bằng Tư
lệnh Hai Sỹ, vì ông đã từng là Tư lệnh Lữ đoàn Đặc công 429. Thực tế, ngay trong đêm ta
làm chủ nhiều mục tiêu, diệt cơ bản sinh lực địch, nhưng do một cánh quân của Tiểu đoàn
18 đi lạc để sót mục tiêu, nên không thể dứt điểm hoàn toàn trận địa. Ngay hôm sau, Tiểu
đoàn trưởng Tiểu đoàn 18 bị triệu hồi về Sở Chỉ huy tiền phương làm tường trình, bị Tư
lệnh xử lý kỷ luật cách chức. Cũng phải thừa nhận, trước ngày ta tấn công Chi khu Hoài
Đức, địch đã tăng viện vào đây thêm 2 tiểu đoàn, chúng còn nằm rải rác bên ngoài căn cứ
chi khu, nên khó thể dứt điểm sớm Hoài Đức, vì thế ta chuyển thế bao vây, thu hút cầm
chân và tiêu hao lực lượng địch, chi viện đắc lực cho mặt trận đường 14 - Phước Long
Hướng Phước Long, Sư đoàn 3 (302) và Sư đoàn 7 (tăng cường Trung đoàn 2 của Sư
đoàn 9) đêm 12 rạng sáng 13-12, mở chiến dịch giải phóng đường 14 - Phước Long, buộc
chính quyền VNCH, Quân đoàn 3, Sư đoàn 18 ngụy phải lúng túng đối phó nhiều hướng.
64

7.9 Page 69

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Con đường duy nhất để quân ngụy giải cứu Chi khu Hoài Đức là tỉnh lộ 3 từ hướng
Gia Ray sang, đã bị Trung đoàn 33 chốt cứng. Nhưng có dấu hiệu trong chi khu địch còn
phản công rất mạnh, có vẻ quân địch được tăng quân.
Chính ủy sư đoàn Bảy Mai bàn với Tư lệnh Hai Sỹ để ông đi kiểm tra thực địa, động
viên bộ đội Trung đoàn 33 chốt chặn ở lộ 3. Ngay trong đêm, chúng tôi một tiểu đội bao
gồm lính văn phòng bộ và trinh sát dẫn Chính ủy ra tận chốt. Tại khu vực chốt chặn của ta,
pháo địch từ Gia Ray bắn cầm canh suốt đêm, nhưng anh em trụ vững nhờ hầm hào kiên cố.
Chỉ huy đơn vị quả quyết rằng địch không thể vượt chốt, hơn nữa các đơn vị của Trung
đoàn 33 và Trung đoàn 4 liên tục tập kích, gây thiệt hại nặng quân địch chờ tăng viện cho
Hoài Đức ở ngã ba Ông Đồn và Suối Cát.
Điều tra nhanh việc địch có tăng quân vào Hoài Đức, tù binh khai: Tiểu đoàn 344
Địa phương quân từ Bình Tuy đã đổ quân đến bằng nhảy trực thăng. Sư đoàn 18 VNCH còn
điều Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 43 nhảy vào Hoài Đức cũng bằng trực thăng từ hướng Định
Quán.
Ngày 19-3, Sư đoàn 6 quyết định dứt điểm Chi khu Hoài Đức. Sau một ngày chiến
đấu ác liệt, 4 giờ 30 sáng ngày 20-3 ta làm chủ Hoài Đức. Trong Chi khu, tên thiếu tá Xinh,
Chi khu trưởng đã trốn mất; tên Khanh, thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 369 Địa
phương quân cũng mất tăm.
Tên thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 344 Địa phương quân sau này cải tạo ở trại
A20 khai: Cả quân tăng viện và quân tại chỗ trong chi khu Hoài Đức có 3 tiểu đoàn, không
kể nghĩa quân, khi tháo chạy y chỉ gom được 240 lính sống sót, trốn chạy trong rừng hơn
40km để về Căn cứ 2, quốc lộ 1, quân Giải phóng truy đuổi tiêu diệt 40 tên, chỉ còn 200
quân.
Giải phóng hai quận Hoài Đức - Tánh Linh, Sư đoàn 6 còn tiêu diệt một tiểu đoàn
thuộc chiến đoàn 52, Sư 18 VNCH ở Gia Ray, tấn công tiêu diệt 5 căn cứ địch từ ngã ba
Ông Đồn đến giáp tỉnh Bình Tuy, một vùng giải phóng bắc đông bắc Xuân Lộc, có vòng
cung từ Dốc Mơ, đường 20 sang Suối Cát, quốc lộ 1 được mở rộng. Sư đoàn 6 ra quân trận
đầu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, phối hợp tích cực cho mặt trận đường 14 - Phước
Long, mở rộng hành lang để đón lực lượng Quân đoàn 4, chuẩn bị cho trận đánh lớn vào cứ
điểm Xuân Lộc, Long Khánh...
18. Đức Việt. Đập tan cánh cửa thép / Đức Việt // Báo Đồng Nai. – 2015. Ngày 9
tháng 4. Tr.8-9.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, việc đập tan cánh cửa thép,
cứ điểm phòng thủ cuối cùng của địch tại Xuân Lộc là nhiệm vụ cực kỳ khó khăn của
các lực lượng quân giải phóng
Bằng lối đánh táo bạo, kết hợp với việc vận dụng sáng tạo chiến thuật “3 mũi giáp
công” nên quân, dân Xuân Lộc đã kề vai sát cánh với bộ đội chủ lực liên tục tiến công địch,
đánh tan rã hoàn toàn quân địch tại phòng tuyến cuối cùng này, tạo đà cho quân chủ lực tiến
về Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
65

7.10 Page 70

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
* Đánh trong vòng vây của địch
Vốn là người am hiểu chiến trường Xuân Lộc từ khá sớm, nên Đại tá Hoàng Viết Sở,
nguyên Đại đội phó trinh sát - đặc công Quân khu 7, người được giao nhiệm vụ bám địch ở
chiến trường Xuân Lộc trong chiến tranh và nguyên Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự
TX.Long Khánh nay đã nghỉ hưu, bồi hồi nhớ lại: Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
huyện Xuân Lộc có một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng. Trên địa bàn huyện có những
tuyến giao thông quan trọng như quốc lộ 1, tuyến đường sắt Bắc - Nam và các tỉnh lộ 2, 3 đi
Bình Thuận và Bà Rịa - Vũng Tàu. Trước đây, Xuân Lộc có rừng nối liền với rừng cực
Nam Trung bộ, Xuyên Mộc, Định Quán, Tân Phú, tạo nên thế liên hoàn có khả năng xây
dựng căn cứ kháng chiến. Chính vì địa thế trên nên cả ta và địch đều tận dụng địa bàn Xuân
Lộc để thực hiện các mục đích quân sự lâu dài. Trong chiến tranh, Mỹ và chính quyền Sài
Gòn coi Xuân Lộc là “bức tường thép” bảo vệ hướng Đông Bắc Sài Gòn, do vậy chúng tập
trung xây dựng ở đây nhiều căn cứ quân sự lớn, với nhiều lực lượng quân binh chủng quan
trọng để đàn áp phong trào cách mạng địa phương và ngăn chặn các đòn tiến công của ta.
Cuối năm 1974, cục diện chiến trường chung có nhiều thuận lợi, Trung ương Cục
miền Nam, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở Chiến dịch Đông - Xuân 1974-
1975, trọng điểm là đường 14 - Phước Long; chiến trường Bà Rịa - Long Khánh, trong đó
có Xuân Lộc. Từ cơ sở này, Khu ủy Miền Đông quyết định mở chiến dịch lộ 3, lộ 1 nhằm
tiêu diệt hệ thống căn cứ quân sự ở đây để kìm
chân Sư đoàn 18 của địch, đồng thời mở rộng
vùng giải phóng, mở rộng hành lang chiến
lược nối với Khu 6 và xây dựng lực lượng
chính trị, hậu cần dự trữ cho các chiến dịch
lớn hơn.
Trong thời gian này, ông Lương Văn
Năm (tức Sáu Lâm), nguyên Bí thư Chi bộ xã
Bảo Định trong chiến tranh, cho biết để thực
hiện đúng kế hoạch chỉ đạo của trên, Huyện ủy
Xuân Lộc đã quyết định động viên toàn bộ sức
mạnh của quân và dân huyện nhà tập trung lực
lượng giải phóng vùng ven rộng lớn phía Bắc và Đông Nam TX.Long Khánh. Do vậy, lực
lượng K8 cùng Tiểu đoàn 445 Bà Rịa - Long Khánh, các đội vũ trang và lực lượng tự vệ
mật của Ban cán sự di dân liên tục tổ chức các trận đánh tiêu hao sinh lực địch ở khu vực
Suối Cát, Bảo Chánh, Bình Phú. Tiểu đội súng cối nữ cơ động pháo kích phá hủy phương
tiện chiến tranh, kho tàng địch ở sân bay Long Khánh, cầu Gia Liêu, Bình Phú, đánh địch ở
khắp địa bàn ven TX.Long Khánh.
* Cùng bộ đội chủ lực phá tan cánh cửa thép
Ông Trần Quang Nhứt, nguyên là cán bộ địch vận của xã Bảo Định trong chiến
tranh, chia sẻ với quyết tâm biến chủ trương của trên thành hiện thực, vào đêm 10 rạng sáng
11-12-1974, du kích cùng nhân dân Bảo Chánh đã phối hợp với bộ đội K8 huyện tổ chức
tấn công đồn Bảo Chánh bằng chiến thuật “3 mũi giáp công”. Khi tiếng súng nổ ra, Tiểu đội
66

8 Pages 71-80

▲back to top

8.1 Page 71

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
nữ súng cối pháo kích uy hiếp, Ban binh vận huyện cùng Chi bộ Đảng địa phương huy động
quần chúng, trong đó có nhiều gia đình binh sĩ đến phát loa kêu gọi con em trong đồn buông
súng đầu hàng. Trước áp lực của quân giải phóng, toàn bộ binh lính bảo an trong đồn Bảo
Chánh ra hàng. Bảo Chánh là xã đầu Tiên của tỉnh Bà Rịa - Long Khánh được giải phóng,
mở đầu cho phong trào địa phương tự lực giải phóng xã, ấp. Bài học từ việc bức hàng đồn
Bảo Chánh được Khu ủy phổ biến rộng trong toàn khu. Và cũng từ kinh nghiệm đánh địch
bằng “3 mũi giáp công” ở Bảo Chánh, liên tục trong thời gian cuối năm 1974, đầu năm
1975, các đội vũ trang ở các khu, đồn và tự vệ mật đã liên tục tiến công và nổi dậy diệt ác
ôn, tiêu hao và làm tan rã các trung đội dân vệ và phòng vệ dân sự địch, bắt và giải tán bộ
máy kiềm kẹp của địch, lần lượt giải phóng các đồn Lều Xanh, Suối Cát, Đồng Tâm 1, 2, 3,
4, 5 có trên 20 ngàn dân, đồng thời cắt đứt quốc lộ 1 nối với Long Khánh từ hướng Đông
Bắc.
Ông Lương Văn Năm cho biết thêm, trước sự kiện “Bảo Chánh” và trước sức tiến
công của quân dân Xuân Lộc, địch phải dùng lực lượng bảo an căng kéo chống đỡ. Tiểu khu
Long Khánh cùng Sư đoàn 18 lo sợ, tăng cường bố trí phòng thủ và tung lực lượng thám
báo, biệt kích đi khắp nơi thăm dò. Liên đoàn biệt kích 81 lùng sục ráo riết ở khu vực núi
Chứa Chan, Chiến đoàn 52 càn quét hướng Bảo Chánh, Ruộng Tre, lực lượng Bảo an địch ở
Bình Phú, Ông Đồn bị đảo lộn phải thay nhau liên tục.
Đại tá Hoàng Viết Sở cho biết thêm, khi Chiến dịch giải phóng Buôn Ma Thuột bắt
đầu vào ngày 10-3-1975 thì đến ngày 18-3-1975, để chia lửa với chiến trường chính, lực
lượng K8 huyện cùng du kích các xã phối hợp với Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 4 (Sư đoàn 6)
giải phóng Suối Cát, tổ chức đánh diệt địch từ Tiểu khu Long Khánh lên tăng viện. Đến
ngày 20-3-1975, K8 cùng Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 4 tiêu diệt 2 đại đội của Tiểu đoàn Bảo
an 332 địch từ Bình Phú lên tiếp viện cho Ông Đồn. Đêm 20 rạng 21-3-1975 ta đồng loạt
tiến công quét sạch địch, giải phóng ngã ba Ông Đồn, núi Chứa Chan, làm chủ được lộ 3 từ
ngã ba Ông Đồn đến Trà Tân 2. Thừa thắng xông lên, ngày 21-3-1975, Tiểu đoàn 445 Bà
Rịa - Long Khánh cùng lực lượng huyện Cao Su giải phóng xã Ông Quế...
Từ ngày 21-3 đến 2-4-1975, cũng bằng chiến thuật “3 mũi giáp công”, Huyện ủy
Xuân Lộc đã phát động nhân dân kết hợp các Đội vũ trang tuyên truyền và du kích các xã
dọc quốc lộ 1 từ ngã ba Ông Đồn đến Căn cứ 5 quét sạch địch trên tuyến đường này, giải
phóng toàn bộ các xã, ấp, giải phóng trên 100 ngàn dân, mở một hành lang rộng lớn ở phía
bắc TX.Long Khánh, đảm bảo cho các đơn vị của Quân đoàn 4 đứng chân mở Chiến dịch
Xuân Lộc.
Đặc biệt, khi Chiến dịch Xuân Lộc nổ ra, để hỗ trợ cho Quân đoàn 4 tiến công địch,
Tiểu đoàn 445, Đại đội 41 của huyện Châu Đức, Bà Rịa - Long Khánh, bộ đội K8 Xuân
Lộc, du kích và tự vệ các xã tăng cường tấn công, chia cắt địch. Trong các ngày 6, 7, 9-4-
1975, lực lượng vũ trang Bà Rịa - Long Khánh và bộ đội K8 Xuân Lộc đã đánh tiêu hao
nặng 2 tiểu đoàn bảo an địch ở Bình Phú, Bảo Toàn, giải phóng Bảo Hòa, chia cắt địch ở
Tân Phong, Suối Cát, chiếm cầu Gia Liêu, Bảo Thị, khống chế địch ở căn cứ Suối Râm, giải
phóng hoàn toàn huyện Xuân Lộc, mở ra một vùng giải phóng rộng lớn ở phía bắc TX.Long
67

8.2 Page 72

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Khánh, mở đường cho Quân đoàn 4 đập tan cánh cửa thép Xuân Lộc - Long Khánh, tiến về
Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
19. Đức Việt. Lớn mạnh trong vòng kiềm kẹp / Đức Việt //
http://baodongnai.com.vn. 2014. Ngày 16 tháng 12.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xã Bảo Hòa (huyện Xuân Lộc) được
Mỹ - ngụy xem là một trong những hệ thống phòng ngự từ xa phía cửa ngõ Đông Bắc Sài
Gòn. Vì vậy, Mỹ - ngụy đã chọn vùng Xuân Lộc, trong đó có xã Bảo Hòa để thành lập tỉnh
lỵ Long Khánh, lập ấp chiến lược và bố trí tại đây nhiều căn cứ quân sự, xây dựng bộ máy
chính quyền xã, ấp để đánh phá, đàn áp phong trào cách mạng.
* Mưu trí đánh địch
Ông Lương Văn Năm (Sáu Lâm, ngụ xã Xuân Tân, TX. Long Khánh, nguyên Bí thư
Chi bộ xã Bảo Định ngày xưa) bồi hồi nhớ lại, trước giải phóng, xã Bảo Hòa được địch đặt
tên xã Bảo Định. Để dễ quản lý, địch chia xã Bảo Định làm 6 ấp, gồm: Nam Hà, Bảo Thị,
Bảo Hòa, Bảo Định, Bảo Toàn, Bảo Liệt; mỗi ấp đều có hệ thống chính quyền hoàn chỉnh
và mạng lưới mật thám bố trí ở khắp nơi trong dân.
Về phía ta, lực lượng cách mạng của Bảo Định rất mỏng, chỉ có cán bộ Đảng, cán bộ
Đoàn thanh niên, phụ nữ, cán bộ dân vận và 3 du kích chủ yếu hoạt động ở vùng ven tỉnh
Long Khánh.
Giai đoạn 1960-1962, sau thời gian củng cố, phát triển lực lượng, hoạt động của Chi
bộ Bảo Định và các lực lượng cách mạng địa phương phát triển sang phía Nam quốc lộ 1, từ
ấp Nam Hà giáp Bảo Bình cho đến ấp Bảo Liệt giáp Bình Phú. Trong giai đoạn này, theo
ông Sáu Lâm, muốn xây dựng, phát triển cơ sở cách mạng trong dân là một việc cực kỳ khó
khăn. Bởi địch bên trong, ta bên ngoài, địa bàn xã Bảo Định lại có đông đồng bào có đạo,
địch lợi dụng tự do tín ngưỡng của người dân để xây dựng những ấp “chống Cộng triệt để”,
ấp “bất khả xâm phạm”.
Bất chấp những khó khăn, Chi bộ Bảo Định đã từng bước vận động, xây dựng được
một số cơ sở cách mạng trong vùng đồng bào dân tộc, đồng bào theo đạo Công giáo và
đồng bào không có đạo.
Có được sự cưu mang, chở che của người dân, nhận thấy phong trào cách mạng địa
phương trong giai đoạn này có bước phát triển lớn mạnh, đến năm 1963, Chi bộ xã Bảo
Định xây dựng được lực lượng vũ trang địa phương và cử đồng chí Dương Văn Quang làm
xã đội trưởng.
Ông Trần Quang Nhứt (ngụ xã Bảo Hòa, nguyên cán bộ địch vận của xã Bảo Định
trong chiến tranh) chia sẻ, thời đó địch ở địa bàn rất mạnh, chúng đóng vòng trong, vòng
ngoài, vậy mà ta vẫn trụ được ngay trong lòng địch, xây dựng cơ sở cách mạng, chống địch
lập ấp chiến lược, lấn đất, giành dân. Có thể nói, lòng dân đối với cách mạng thật tuyệt vời,
bà con sẵn sàng chịu đòn tra tấn, hy sinh, đón cán bộ về nhà nuôi giấu để diệt bọn ác ôn,
mật vụ. Nhiều người còn dũng cảm đưa đón, dẫn đường, hướng dẫn bộ đội phục kích tiêu
diệt địch. Có những gia đình có người thân đi lính cho chế độ cũ nhưng không ngần ngại hỗ
68

8.3 Page 73

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
trợ cách mạng, cung cấp rất nhiều thông tin tình báo quan trọng cho ta đánh địch. Đó chính
là sức mạnh của lòng dân một lòng hướng về Đảng, quyết tâm chiến đấu bảo vệ quê hương.
* Liên tục tấn công địch
Hoạt động trong lòng địch, có sự che chở của dân, hoạt động của lực lượng cách
mạng ở địa phương có nhiều thuận lợi, tạo đà cho bộ đội, du kích tổ chức nhiều trận đánh
làm khiếp vía quân thù. Đi suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, quân dân xã Bảo Hòa đã tổ
chức 30 trận đánh lớn, nhỏ. Trong đó có những trận đánh điển hình cho phong trào toàn dân
đánh giặc, như trận tập kích đồn Nam Hà (năm 1974) và trận đánh tại ấp Nam Hà (năm
1975).
Ông Trần Quang Nhứt kể lại, vào năm 1974, địch đưa Đại đội thám sát 133 của Tiểu
khu Long Khánh về đóng đồn ở ấp Nam Hà để đánh phá phong trào cách mạng địa phương.
Thực hiện chủ trương của trên phải đánh địch để mở rộng địa bàn hoạt động về phía Nam
quốc lộ 1, góp phần phối hợp với chiến trường toàn Miền, đồng chí Sáu Lâm lúc bấy giờ là
Bí thư Chi bộ xã và đồng chí Hai Nguyên, Huyện đội phó Xuân Lộc cùng một số cơ sở của
ta bên trong, như: Đậu Bá Tạo, ông Năm, ông Hai Bí… đã bí mật trinh sát thực địa, theo dõi
cách bố phòng của quân địch bên trong đồn Nam Hà.
Ông Trần Quang Nhứt (trái) kể lại trận đánh
đồn Nam Hà
Sau nhiều ngày điều nghiên mục tiêu, biết địch thường tổ chức đá bóng vào buổi
chiều và có nhiều sơ hở trong canh phòng, cấp trên quyết định giao cho quân dân Bảo Hòa
phối hợp với Huyện đội Xuân Lộc, bộ đội K8 tổ chức thực hiện trận đánh. Khoảng 17 giờ
ngày 16-5-1974, lực lượng tấn công đã chia thành 3 mũi bất ngờ xông thẳng vào đồn đồng
loạt nổ súng tiêu diệt địch. Quá hốt hoảng và bất ngờ trước sự tấn công của ta, địch trở tay
không kịp. Hàng chục tên đã bị quân ta tiêu diệt ngay từ loạt đạn đầu.
Chiến thắng của trận tập kích đồn Nam Hà đã mở ra khả năng mới về sự phối hợp tác
chiến giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích; đồng thời tạo được niềm
tin lớn vào khả năng chiến đấu của lực lượng du kích xã. Chiến thắng này đã góp phần cùng
69

8.4 Page 74

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
toàn huyện phát triển thêm được 105 cơ sở cách mạng, thu hút thêm 46 thanh niên tình
nguyện thoát ly theo kháng chiến, ta có thêm 8 vùng lõm giải phóng ở thế “cài răng lược”.
Địch ổn định đội hình và điên cuồng chống trả. Các đồng chí Hai Bỉ và Sáu Lâm đã
nhanh chóng chỉ huy lực lượng chia thành nhiều mũi tiếp cận và tiêu diệt địch. Sau 10 phút
chiến đấu, du kích Bảo Hòa cùng bộ đội đã diệt tại chỗ 76 tên địch, bắt sống 3 tên, thu 44
súng, 2 máy thông tin. Chiến thắng đồn Nam Hà đã củng cố được niềm tin cho quân dân
Bảo Hòa tiếp tục làm nên những chiến công mới, như trận đánh 12 ngày đêm giải phóng ấp
Bảo Hòa từ ngày 9 đến 21-4-1975, tạo điều kiện cho đại quân của ta đập tan tuyến phòng
thủ cuối cùng của địch ở Xuân Lộc, tiến về Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc.
Về trận đánh này, ông Sáu Lâm nhớ lại, trong Chiến dịch Hồ Chí Minh tháng 4-
1975, thực hiện chỉ đạo của trên về việc “huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã”, Chi
bộ xã Bảo Hòa quyết định đánh chiếm đồn Bảo Hòa để tạo điều kiện cho các cánh quân chủ
lực dứt điểm Long Khánh. Từ đây, du kích Bảo Hòa phối hợp với bộ đội K8, bộ đội huyện
có sự chi viện của một số du kích Bảo Chánh tổ chức thực hiện trận đánh. Chỉ có khoảng 10
tay súng, vũ khí trang bị chỉ có 1 khẩu súng cối, 1 đại liên, 2 khẩu M79, 2 khẩu B40, nhưng
nhờ sự hợp đồng chiến đấu chặt chẽ với bộ đội huyện và sự chi viện kịp thời của bộ đội chủ
lực Sư đoàn 6, ta đã nhanh chóng đập tan đồn Bảo Hòa, mở ra vùng giải phóng bên vùng
ven tỉnh lỵ Long Khánh.
Ngày 12-4-1975, địch đưa Lữ đoàn dù số 2 xuống Nam Tân Phong hòng tái chiếm lại
các địa bàn đã mất ở phía Nam quốc lộ 1, nhưng quân dân Bảo Hòa đã liên tục chặn đánh
địch, kìm chân không cho chúng tái chiếm những khu vực đã mất.
Cuộc chiến đấu của quân dân Bảo Hòa kéo dài nhiều ngày hết sức gay go. Bất chấp
bom đạn của địch, du kích, bộ đội K8, các nhóm thanh niên xung kích, thanh niên cờ đỏ
phục vụ chiến đấu vẫn kiên cường chống trả khiến địch không thể tiến quân thêm được, tạo
điều kiện để cho các cánh quân chủ lực của ta dứt điểm Long Khánh vào ngày 21-4, rộng
đường tiến công vào Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
20. Hồ Sơn Đài. Ngày 20-3-1975, giải phóng Định Quán - Đường 20 / Hồ Sơn Đài //
http://www.sggp.org.vn. 2015. Ngày 20 tháng 03.
Đường 20 nối từ miền Đông Nam bộ với Tây Nguyên, bắt đầu từ quốc lộ 1 tại ngã ba
Dầu Giây (tỉnh Long Khánh) lên đường 21 tại quận lỵ Đức Trọng (tỉnh Lâm Đồng).
Trên đường số 20, địch tổ chức 1 chi khu quân sự với hệ thống phòng thủ tương đối
mạnh tại Định Quán, điểm giáp ranh giữa Quân khu 2 và Quân khu 3 của quân đội Sài Gòn.
Trong chiến dịch Tây Nguyên, theo kế hoạch, Quân giải phóng sẽ đánh cắt các đường bộ số
11, 19, 21. Đánh chiếm Định Quán không chỉ có ý nghĩa làm chủ đường 20, chia cắt đường
21, mà còn tạo điều kiện giải phóng tỉnh Lâm Đồng, mở rộng vùng giải phóng Nam Tây
Nguyên.
Sư đoàn 7 (Quân đoàn 4) cùng lực lượng vũ trang Quân khu 6 , Quân khu 7 được
giao nhiệm vụ đánh chiếm Định Quán, giải phóng đường 20 và tỉnh Lâm Đồng. 5 giờ sáng
ngày 17-3, Quân giải phóng nổ súng tiến công Định Quán và các căn cứ của địch ở Phương
70

8.5 Page 75

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Lâm, La Ngà, Núi Tràn, đồi Đăng Ca, điểm cao 112. Sau 1 ngày chống trả, chiều ngày 17,
quân địch buộc phải chạy vào các gộp đá cố thủ. Ngày 18-3, Quân giải phóng tiếp tục tiến
công, lần lượt tiêu diệt các cứ điểm phòng thủ của địch ở Định Quán. Đến ngày 20-3-1975,
sau 4 ngày chiến đấu, Sư đoàn 7 và lực lượng vũ trang địa phương đã diệt, làm tan rã toàn
bộ quân địch gồm cả bộ phận của Sư đoàn 18 quân đội Sài Gòn lên tăng viện, làm chủ chi
khu quân sự, giải phóng Định Quán, làm chủ một đoạn đường 20 dài trên 50km.
Định Quán - đường 20 giải phóng đã cắt đứt con đường bộ duy nhất từ miền Đông
Nam bộ lên Tây Nguyên, mở thêm một hành lang quan trọng cho Quân giải phóng trên
hướng Đông Bắc Sài Gòn.
21. Huỳnh Việt Thắng. Nhớ ngày giải phóng Biên Hòa / Huỳnh Việt Thắng // Biên
Hòa ghi nhớ và tự hào. – Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Trẻ, 1997. – Tr.138-142.
Tháng 2.1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, mở mặt trận tấn công khắp nơi. Rừng
Tà Lài, căn cứ Khu ủy Miền Đông Nam bộ, được tin chiến thắng liên tục báo về, từ các
chiến trường.
Ban Thường vụ Khu ủy phân
công các đồng chí ủy viên thường vụ
cùng một số cán bộ đi công tác các
mặt trận miền Đông: đồng chí Sáu
Trung đi Tân Uyên, Bến Cát; đồng
chí Sáu Tuyến đi Bà Rịa, Vũng Tàu;
đồng chí Năm Chữ, Bí thư Khu ủy đi
Xuân Lộc, Long Khánh; đồng chí
Chín Lê Phó Bí thư và đồng chí Tư
Thắng ủy viên thường vụ trực ở văn
phòng khu ủy, Ban an ninh và Ban
kinh tài.
Mặt trận Xuân Lộc Long
Khánh, đang bao vây chiến đấu quyết
liệt suốt tuần với Sư đoàn 18 ngụy,
chưa dứt điểm. Đồng chí Năm Chữ
phải trở về trực ở văn phòng Khu ủy
Đồng chí Phan Vãn Trang và đồng chí Huỳnh Việt
Thắng nhận bó hoa của quần chúng đến mừng chiến
thng lúc 10g30 ngày 30.4.1975 trước dinh tỉnh trưởng
ngụy quyền tỉnh Biên Hòa.
thay đồng chí Chín Lê. Đồng chí Tư Thắng được phân công cùng đồng chí Chín Lê xuống
phối hợp với Thành ủy cùng về giải phóng thành phố Biên Hòa.
Đồng chí Tư Thắng về Ban an ninh giao nhiệm vụ cho đồng chí Tư Nam ủy viên
Ban, cùng một số cán bộ đi tiền trạm, 1 xuống Bình Sơn Long Thành bắt liên lạc với đồng
chí Năm Trang Bí thư Thành ủy, để cùng phối hợp ra tiếp quản Long Thành, theo quốc lộ
15 (nay là quốc lộ 51) tiến về Biên Hòa.
Khoảng 20.4.1975, đồng chí Chín Lê và đồng chí Tư Thắng cùng đoàn cán bộ từ căn
cứ Tà Lài xuất phát lên đường. Được tin Định Quán mới được giải phóng, cả đoàn phấn
khởi, nô nức vượt sông Đồng Nai về cầu La Ngà theo quốc lộ 20 tiến chiếm Gia Kiệm. Vì
71

8.6 Page 76

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
nghe lời tuyên truyền hù dọa của địch: “Cộng sản vào sẽ giết tất cả, sẽ trả thù đồng bào
nhiên chúa giáo di cư, sẽ dùng kềm rút móng tay phụ nữ sơn đỏ bóng...” nên tất cả đều bỏ
cả tài sản, ruộng vườn, nhà cửa, đồ đạc và gia súc, gia cầm chạy tán loạn về Biên Hòa, về
Sài Gòn.
Cả đoàn quân, phân nhau ở trong nhà dân, một khẩu lệnh được đưa ra: “Phải bảo vệ
tài sản của đồng bào không được đụng đến cây kim sợi chỉ; heo, gà, vịt đói phải lấy lương
thực, thực phẩm đồng bào để lại cho ăn, trâu bò đói phải thả ra đồng cỏ”.
Được tin thị trấn Long Thành nơi địch rút quân, các nơi về chiếm đóng dày đặc.
Quân ta tiến theo hướng này bất lợi. Đồng chí Tư Thắng điện hỏa tốc cho đồng chí Tư Nam
cùng với đồng chí trong Thành ủy Biên Hòa chuyển quân về họp điểm tại Gia Kiệm, tổ
chức ạ đội ngũ, phân công, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng địa bàn quan trọng theo kế hoạch
đã định như: Dinh hành chánh tỉnh trưởng, Trụ sở cảnh sát đặc biệt Miền Đông, Ty cảnh sát
tỉnh, cảnh sát thị xã, trụ sở hành chánh quận Đức Tu, các sở: Tài chánh, Ngân hàng, Khu
công nghiệp Biên Hòa và những nơi khác.
Tối 23.4.1975 tất cả các đồng chí trong đoàn cán bộ Khu và Thành phố Biên Hòa
họp đủ mặt tại Gia Kiệm, cùng nhau nhận định, đánh giá tình hình, chấn chỉnh tổ chức và
nhận nhiệm vụ được giao.
Sáng hôm sau, để đảm bảo an toàn, đoàn phân công đồng chí Tư Nam, Ba Đời, cán
bộ công an đi toán tiền trạm, đồng chí Tư Thắng, Năm Trang cùng đoàn cán bộ đi tiếp theo;
đồng chí Chín Lê, Mười Thà và một số đồng chí khác đi sau cùng. Cự ly cách nhau mỗi
toán khoảng 500-700m cùng tiến về Dầu Giây, theo quốc lộ 1 về Biên Hòa. Dọc đường xác
lính địch chết ngổn ngang từng cụm, từng đống 5, 7 người bên đường lộ, trong vườn nhà,
cạnh gốc cao su, không ai chôn cất!
Đêm đến, đoàn tạm trú trong rừng Giá Tỵ Trảng Bom. Nằm trên võng, nhìn trời sao,
nghe tiếng súng, tiếng bom liên tục nổ... Lòng bồn chồn không làm sao chợp mắt được.
Thương chiến sĩ còn đang gian khổ giao chiến với quân thù.
Thương đồng bào bỏ cả nhà cửa, ruộng vườn, tài sản chạy loạn. Thù quân xâm lược
và bè lũ tay sai bán nước gây ra chiến tranh Việt Nam hóa, để nồi da xáo thịt, giết chóc đau
thương, gây hận thù giữa người cùng dân tộc. Đầu óc quay cuồng trăn trở với bao nỗi nhớ
niềm thương, bao kỷ niệm không quên trong thời kỳ hoạt động bí mật ở Thành phố trong
những năm đấu tranh chính trị. Ước gì có cánh bay nhanh về gặp lại người xưa, những
người bất chấp gian nguy, tù tội, bất chấp địch có thể phát hiện và trả thù, đã nuôi dưỡng,
đùm bọc chở che cho cán bộ, hoạt động, xây dựng phong trào tồn tại cho đến ngày chiến
thắng.
Trời vừa sáng, cuộc tiến quân tiếp tục về Hố Nai, thẳng hướng Biên Hòa. Hai bên
đường dân cư đông đúc, khoảng 500--700 thước có một nhà thờ. Cửa hàng, hiệu buôn đông
đúc đủ loại, hàng hóa đầy ắp từ trong ra ngoài. Các chủ cửa hàng, các nhà thờ, nhà dân đều
đóng cửa bỏ chạy. Một số bọn xấu thừa cơ hội loạn ly, đập phá cửa xông vào cướp bóc hàng
hóa đồ đạc. Họ giành nhau, họ chụp giựt, họ lựa chọn, lấy hàng tốt, vứt hàng xấu gây cánh
hỗn loạn khắp nơi.
72

8.7 Page 77

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Trong lúc chính quyền Cách mạng chưa kịp tiếp quản lập lại trật tự. Đoàn phải dừng
lại, chia nhau vào can thiệp, giải thích, giáo dục đồng bào nên tôn trọng tài sản vắng chủ.
Chủ nhà chạy đi tạm thời vì quá sợ, rồi sẽ trở về. Đồng bào còn ở lại nên trông nom bảo vệ.
Đây là tình nghĩa xóm làng, thân cận, không nên vi phạm, sau này khó mà gặp mặt nhau...
Giải thích đến đâu tạm yên đến đấy. Vì không đủ lực lượng công an bố trí canh phòng, đoàn
kẻo quân đi, phía sau hỗn loạn lại tiếp diễn. Đoàn đành phải nhanh chóng hướng về mục tiêu
giải phóng Biên Hòa.
Lửa đạn còn mịt mù phía trước, chiếc xe đi tiền trạm của đồng chí Ba Đời bị trúng
pháo lật nhào, rất may, chiến sĩ trên xe tránh khỏi, dồn qua xe đồng chí Tư Nam tiếp tục tiến
quân. Qua cửa thành, nơi Quân đoàn 3 chiếm đóng, bên trong, cuộc chiến còn ác liệt, đoàn
xông qua lửa đạn về thành phố.
Càng về gần trung tâm càng gặp nhiều đồng bào đứng chật hai bên đường. Thấy
đồng bào như gặp lại người thân từ bao giờ, mọi người chúng tôi đều cảm xúc mạnh, nước
mắt muốn tuôn trào... Đồng bào nhìn chúng tôi tuy chưa dám hỏi han chuyện trò nhưng qua
ánh mắt, đồng bào nhìn dép quai râu, nhìn đồ trang phục mỗi người mỗi vẻ, nhìn gương mặt
biểu lộ tình cảm thân thương của đoàn, nhiều người to nhỏ bình luận: “Việt Cộng hiền lành,
khỏe mạnh, đẹp đẽ thế này mà “họ” nói Việt cộng hung dữ, người ốm tong teo, ba tên đeo
cọng lá đu đủ không rụng”.
Được tin tên trung tướng tư lệnh Quân đoàn 3 và Tỉnh trưởng ngụy cho tay sai đánh
sập nhịp cầu giữa cầu mới Hóa An tháo chạy về Sài Gòn. Đoàn phân công cán bộ đi tiếp
quản các mục tiêu đã định, bố trí lực lượng an ninh chốt gác các vị trí then chốt trên các nẻo
đường ra vào thành phố, phát loa kêu gọi đồng bào bình tĩnh trở về nơi ăn chốn ở, cùng với
lực ượng vũ trang cách mạng thu gom vũ khí của tự vệ, giữ gìn trật tự trị an chung. Theo kế
hoạch, đồng chí Năm Trang, Tư Thắng cùng đến tiếp quản Dinh hành chánh Tỉnh, trung
tâm chỉ huy bộ máy ngụy quyền toàn tỉnh, có tác động nhất định đến khu Miền Đông. Dinh
hành chánh, nằm trên bờ sông Đồng Nai, con sông nổi tiếng nước ngọt, mát, trong, ôm
quanh Cù lao Phố, nuôi bưởi ngọt Tân Triều.
Nhìn Dinh vẫn nằm sừng sững như xưa, có tường rào bao bọc, có sân rộng đậu xe, có
cột cờ cao chính giữa... Đúng, nơi đây, nơi mà trước đây 20 năm, tôi đã từng vào ra với vỏ
bọc người tư sản Sài Gòn. Cũng xách cặp da, cũng mang kiếng mát gọng vàng, lái xe
Peugeot 203 bóng lộn, vào tiếp xúc với anh đặc tình mang bí số AL-05, là phó tỉnh trưởng
phụ trách nội an. Cũng chính nơi đây, bằng cách này, hay cách khác "người tư sản" đã tiếp
nhận nhiều tin tức, tài liệu đặc biệt, quí giá phục vụ cấp ủy chỉ đạo cuộc đấu tranh chính trị
trong giai đoạn 19541960. Nhắc thực tế cũ, cảnh giác âm mưu địch trong tình hình mới:
Bằng conđường quan hệ kinh tế, vào cửa "hậu” gia đình, chúng tôi đã xây dựng được cơ sở
đặc tình cao cấp. Phu nhân của AL-05 tiếp xúc với chúng tôi lần đầu tiên để tính chuyện
kinh doanh khai thác lâm sản.
Kết quả đem lại lợi nhuận khá, mua được xe du lịch, sửa chữa tân trang nhà cửa, mối
quen thân ngày càng gắn bó. Tiếp xúc, tranh thủ tình cảm, giáo dục, thuyết phục đưa AL-05
từng bước vào đường chánh nghĩa, nhận nhiệm vụ, sẵn sàng công tác thầm lặng, rất đắc lực
73

8.8 Page 78

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
trong thời gian dài. Nay trở lại nơi xưa, cảnh vật vẫn như xưa, tìm lại người xưa không còn
nữa!!!
Trong sân rộng, trước Dinh hành chánh, đồng bào tập hợp khá đông, có đủ mọi tầng,
mọi giới, hoan hô đón tiếp đoàn chiến thắng. Một chị phụ nữ khoảng trung niên, chỉnh tề
trong bộ y phục đẹp, đại diện cho đồng bào, ôm bó hoa tươi thắm cùng lá cờ đỏ sao vàng
đến tặng đoàn. Đồng chí Năm Trang, Bí thư Thành ủy đại diện nhận cờ, hoa và làm lễ kẻo
cờ chiến thắng. Lễ chào cờ diễn ra đơn giản nhưng trang nghiêm nước Dinh hành chánh
tỉnh. Chấm dứt chế độ thuộc địa, chế độ thực dân cũ và mới của Pháp và Mỹ trên mảnh đất
quê hương Biên Hòa và Tổ quốc Việt Nam gần thế kỷ. Vui mừng chiến thắng, đồng bào
mời chúng tôi chụp ảnh lưu niệm lúc chúng tôi đứng dưới lá cờ.
Một vinh hạnh của thành phố và quân dân Biên Hòa và Khu Miền Đông Nam bộ là:
sau 5 ngày giải phóng, ngày 5.5.1975, Ban Thường vụ Khu ủy Miền Đông và Thành ủy
Biên Hòa được đón tiếp phái đoàn cao cấp nhất nước, gồm các đồng chí: Tổng Bí thư Lê
Duẩn, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Bí thư Trung ương cục Nguyễn Văn Linh và Đại tướng
Võ Nguyên Giáp, đến thăm, làm việc. Đồng chí Huỳnh Việt Thắng, ủy viên Thường vụ Khu
ủy, phụ trách Ban An ninh và Ban kinh tế tài chánh khu, được thay mặt báo cáo tình hình
sau giải phóng, đặc biệt, tình hình Khu công nghiệp Biên Hòa và hướng dẫn các đồng chí đi
tham quan. Các đồng chí đã cho nhiều ý kiến chỉ đạo xác thực về tổ chức tiếp quản, về chấn
chỉnh bộ máy làm việc và thực hiện các công tác khác trong tình hình mới.
22. Minh Thu. Người nữ anh hùng nơi “Cánh cửa thép” năm xưa / Minh Thu //
http://vnca.cand.com.vn. 2015. Ngày 27 tháng 1.
Khoảng 7h tối ngày 29/01/1975, cách quán Song Nga hơn 10m, một tiếng nổ lớn làm
rung chuyển thị xã Long Khánh (tỉnh Bà Rịa - Long Khánh, Đồng Nai ngày nay). Sau
những phút kinh hoàng, hoảng sợ, bọn Cảnh sát ngụy ào đến. Chúng phát hiện 2 cô gái còn
rất trẻ đã gây ra vụ nổ trên, một cô đã hi sinh tại chỗ, một cô đang bị thương nặng. Lập tức,
cả người đã mất và người còn sống đều bị chúng đưa về đồn...
Hai cô gái ấy chính là những nữ trinh sát của Đội An ninh vũ trang thị xã Long
Khánh. Người con gái bị thương, giập nát chân trái là Phùng Thị Thận. Cô gái hi sinh là Hồ
Thị Hương. Các cô đang ở lứa tuổi đẹp nhất của người con gái, một cô vừa 19, một cô mới
bước qua tuổi 20.
Đêm ấy, hai nữ trinh sát an ninh mật có nhiệm vụ dùng mìn hẹn giờ đánh vào quán
Song Nga, nơi bọn an ninh quân đội, bọn cảnh sát đặc biệt và bọn tình báo tiểu khu Long
Khánh thường tụ tập đến đây để nhậu nhẹt, trác táng. Hồ Thị Hương, với vai trò tổ trưởng
đã rất thận trọng, chuẩn bị chu đáo. Sau khi quan sát kỹ địa hình, nắm vững quy luật đi lại
của địch, Hương điều chỉnh mìn cho đúng 1 giờ sau nổ rồi cùng Phùng Thị Thận bỏ mìn vào
giỏ xách, đạp xe đến quán Song Nga. Trong vai khách hàng đi ăn tối, họ vào quán ăn kem
và bí mật gài trái nổ dưới gầm bàn, sau đó rút lui. Nhưng ngay sau đó, bọn lính đột ngột rời
khỏi quán, đối tượng cần diệt không còn, Hương quyết định huỷ trận đánh và mang trái nổ
rời khỏi quán để tháo kíp, nhưng do sự cố, mìn phát nổ trước giờ quy định và… Đó là trận
đánh cuối cùng của chị cùng đồng đội.
74

8.9 Page 79

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Tôi về Long Khánh khi đất trời đang giao mùa, thật dễ chịu khi được hưởng một chút
se lạnh dịu dàng của mùa đông phương Nam, ngắm nhìn những vườn cây trái xanh ngút
ngát…Nơi năm xưa kẻ địch quyết xây dựng thành "cánh cửa thép", để "tử thủ" với đại đoàn
quân giải phóng giờ bình yên đến lạ kỳ, dấu vết của chiến tranh đã bị xóa nhòa.
Tôi tìm đến nhà cô Phùng Thị Thận, người thoát chết trong gang tấc năm xưa, được
nghe cô kể về những năm tháng "gian lao mà anh dũng". Chiến tranh đã cướp đi của cô một
phần cơ thể nhưng người thương binh 2/4 đã đứng vững bằng nghị lực của chính mình. Cô
trinh sát an ninh mật năm xưa giờ đã là giám đốc một công ty, làm kinh tế cũng giỏi như
ngày xưa đánh giặc. Cô kể cho tôi nghe về người tổ trưởng năm xưa đã hy sinh anh dũng,
chị Hồ Thị Hương.
Chị Hương ra đời năm 1954 ở miền quê Bình Định. Như bao trẻ thơ khác, chị lớn lên
từ dòng sữa mẹ ngọt ngào, thấm đẫm những lời ru từ cánh võng xơ dừa, trong huyết quản
cũng chảy mạnh dòng máu của tinh thần thượng võ. Làng quê của chị mang cái tên thật hiền
hòa, như khát vọng bao đời của người dân Việt: Làng Bình An nhưng ở đó lại không có lấy
một ngày an bình. Khi Mỹ - Diệm lê máy chém đi khắp miền Nam, cái làng quê nhỏ bé ấy
ngày nào cũng có cảnh chém giết, bắt bớ, đánh đập, tra khảo…, làng quê ngập tràn tiếng
kêu khóc oán hờn. Lên 9 tuổi, cô bé Hồ Thị Hương đành theo gia đình rời bỏ quê hương,
tìm về một vùng đất mới và dừng chân tại vùng đất Long Khánh nặng nghĩa tình.
Con nhà nghèo, Hương một buổi đi học, một buổi theo mẹ tảo tần buôn bán. Nhưng
chẳng may người mẹ lam lũ qua đời sớm, cô bé Hương mới chục tuổi đầu đã phải bỏ dở
việc học hành thay mẹ cáng đáng việc nhà, làm thuê làm mướn để mỗi ngày được trả vài lon
gạo đem về nấu cơm cho cha và các em.
Nung nấu trong lòng sự căm thù giặc Mỹ và bọn tay sai, đầu năm 1970, khi mới
chớm bước vào tuổi 16, Hồ Thị Hương đã trở thành đội viên an ninh mật của Đội trinh sát
vũ trang an ninh thị xã Long Khánh với bí số H25. Ban lãnh đạo An ninh thị xã Long
Khánh đã mạnh dạn giao nhiệm vụ nắm tình hình địch trong thị xã, xây dựng và phát triển
mạng lưới cơ sở mật cho Hồ Thị Hương. Công việc hết sức khó khăn và nguy hiểm, bởi
hoạt động trong nội thị phải vượt qua nhiều đồn bót, trạm kiểm soát, cũng như các toán
hành quân càn quét của địch; vượt qua mạng lưới tình báo, mật báo viên theo dõi chặt chẽ
của địch. Nhưng với quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, gan dạ, mưu trí, dũng cảm, chỉ trong
vòng 23 tháng, Hồ Thị Hương đã xây dựng được 12 cơ sở bí mật nội thành theo đúng yêu
cầu của cấp uỷ, có tác dụng tốt. Sự hoạt động năng nổ, tích cực, luôn phấn đấu vươn lên của
Hồ Thị Hương đã được ghi nhận, ngày 20/5/1973, khi chưa tròn 19 tuổi, chị đã vinh dự
được đứng vào hàng ngũ của Đảng.
Từ cuối năm 1973, Hồ Thị Hương được giao nhiệm vụ chỉ huy Tổ trinh sát vũ trang
mật gồm 3 người: Hồ Thị Hương, Lê Thị Lệ (tức Thọ) và Phùng Thị Thận đánh địch trong
nội ô thị xã Long Khánh. Đánh địch ngay trong lòng địch là một nhiệm vụ hết sức khó khăn
và nguy hiểm, Hồ Thị Hương cùng các đồng chí trong tổ đã vượt qua mọi khó khăn, nêu
cao tinh thần cảnh giác, mưu trí dũng cảm, lập kế hoạch và đánh hàng chục trận, diệt được
nhiều tình báo, cảnh sát ác ôn, trong đó riêng Hồ Thị Hương diệt được một tên quận phó ác
ôn và nhiều tên là sỹ quan cảnh sát tình báo…
75

8.10 Page 80

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Đó là trận đánh đêm 05/12/1974 vào quán Hoàng Diệu (nơi bọn biệt kích thám sát
Sư đoàn 18 nguỵ thường tụ tập ăn nhậu). Quán Hoàng Diệu ở ngay sát Sư đoàn nguỵ lại
được canh phòng rất nghiêm ngặt, nhưng khi nhận lệnh làm nhiệm vụ, với sự thông minh,
mưu trí Hồ Thị Hương và nữ đồng chí Lê Thị Lệ trong vai những người đi ăn tối đã đột
nhập vào quán, gài mìn vào vị trí đã định. Mìn nổ, ta diệt 20 tên, làm bị thương 13 tên khác,
trong đó hầu hết là lính biệt kích PRU (biệt kích do Mỹ đào tạo).
Tiếp theo là trận đánh đêm 31/12/1974 tại quán ăn Ngọc Hương. Hồ Thị Hương cùng
Phùng Thị Thận và Lê Thị Lệ đã dùng quả mìn 2 kg có gắn kíp định giờ nguỵ trang trong
vỏ hộp sữa Mejji đựng trong một giỏ đựng hàng. Giả làm khách hàng, cả ba vào quán và
gài khối thuốc nổ dưới gầm bàn rồi rút lui an toàn. Trận đánh diễn ra đúng dự kiến, toàn bộ
ngôi nhà bị sập, hơn 40 tên địch hầu hết là cảnh sát đặc biệt, cảnh sát dã chiến, trong đó có
tên quận phó Xuân Lộc bị diệt tại chỗ. Người dân thị xã vui sướng ngợi khen Việt Cộng tài
"như từ trên trời rơi xuống", bọn địch thì khiếp vía kinh hồn, phải báo động toàn thị xã và
đưa bọn cảnh sát dã chiến đến canh gác thu dọn chiến trường để che giấu thất bại.
Không chỉ mưu trí, dũng cảm trong đánh địch, mà Hồ Thị Hương còn luôn biết nghĩ
đến nhân dân, hết lòng yêu thương nhân dân. Khi được giao nhiệm vụ lên phương án diệt
địch tại quán Nghĩa Ký, nơi bọn cảnh sát dã chiến thường tụ tập ăn nhậu, đêm 7/12/1974,
Hồ Thị Hương cùng Phùng Thị Thận và Lê Thị Lệ, trong vai khách hàng mang giỏ xách có
đựng khối thuốc nổ bên trong ung dung vào quán để dưới gầm bàn và rút lui an toàn.
Nhưng ra đến cửa thì bọn địch cũng tàn cuộc nhậu và bỏ ra về, trong quán chỉ còn chủ quán
và những người làm công. Trước tình huống đó, Hương nhanh trí, bình tĩnh quay trở lại
quán nói lớn: "Đi vội, bỏ quên mất túi xách" rồi điềm nhiên ôm giỏ xách đựng khối thuốc
nổ ra khỏi quán, rút kíp hẹn giờ khỏi khối thuốc và trở về điểm hẹn an toàn, không gây kinh
động vô ích. Hành động mưu trí, dũng cảm của Hồ Thị Hương đã cứu được nhiều người dân
vô tội.
Trận đánh đêm 29/1/1975 là trận đánh cuối cùng… Chị đã hy sinh anh dũng khi vừa
bước qua tuổi hai mươi, với bao nhiêu ước mơ còn dang dở. Bọn địch đã mang xác chị về
đồn và lập tức bắt giữ ông Hồ Ngâm, cha chị, tra khảo rất dã man. Nhân dân Long Khánh
vô cùng thương tiếc người con gái bất khuất, bà con đã kêu gọi nhau làm một cuộc biểu
tình, buộc địch phải trả tự do cho ông Hồ Ngâm và trả xác chị Hương về chôn cất. Chị đã
mãi mãi nằm trong lòng đất mẹ khi mà chỉ tròn 3 tháng nữa thôi, quê nhà được giải phóng
hoàn toàn.
Chị ngã xuống khi ngày chiến thắng của dân tộc đã rất cận kề, trong một mối tình
dang dở ngày hẹn ước. Những chiến công của chị và đồng đội đã góp phần thắng lợi cho
công tác diệt ác, phá kìm, bẻ gãy âm mưu bung ra lấn chiếm, giành dân phục vụ cho giải
pháp chính trị của địch, góp phần đập tan "cánh cửa tử" Xuân Lộc để cùng cả dân tộc làm
nên một “Đại thắng mùa xuân” bất diệt.
Ghi nhận thành tích đặc biệt xuất sắc của chị, ngày 13/8/1980 Nhà nước đã truy tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sỹ Hồ Thị Hương
Đã gần 40 năm rồi ngày chị ra đi…Thị xã Long Khánh giờ đây đang thay da, đổi thịt
từng ngày. Tôi đi qua những con đường đầy nắng, con đường mang tên chị, những con
76

9 Pages 81-90

▲back to top

9.1 Page 81

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
đường ngày xưa chị đã từng đạp xe qua để theo dõi, đặt mìn, tiêu diệt địch…Và …đã hi
sinh…
Đâu đó trong dòng người đi lại, tôi như thấy thấp thoáng bóng dáng chị và đồng đội,
những cô gái thật trẻ trung hồn nhiên với tiếng cười giòn tan, trong veo, trong veo….
Tôi đến ngôi trường cấp II mang tên chị, nơi đây biết bao thế hệ học sinh đã trưởng
thành, hẳn các em sẽ mãi tự hào về ngôi trường mình học, ngôi trường mang tên người nữ
anh hùng của miền quê Long Khánh anh hùng.
Tôi đến nơi chị yên nghỉ cuối cùng, đi giữa những hàng bia đá mà nghe lắng đọng
câu thơ của Nguyễn Đình Thi:
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Đúng như vậy. Chị đã hi sinh tuổi xuân của mình để đổi lấy Mùa xuân cho đất nước.
Chị sẽ sống mãi trong lòng dân tộc, mãi mãi là bất tử như Tố Hữu đã viết:
Có những phút làm nên lịch sử
Có cái chết hóa thành bất tử
Có những lời hơn mọi lời ca
Có những con người như chân lý sinh ra.
23. Nguyễn Quốc Hoàn. Trận đánh sau cùng của những người lính đặc công /
Nguyễn Quốc Hoàn // Báo Đồng Nai. – 2008. Ngày 29 tháng 4. Tr.8
Rạng sáng ngày 28-4-1975, đại đội 14 cùng đại đội 8 tiểu đoàn 174, thuộc trung
đoàn đặc công 113 được giao nhiệm vụ triển khai đội hình chặn địch từ Sóng Thần, Thủ
Đức chi viện cho thị xã Biên Hòa, đồng thời ngăn chặn lực luợng lớn binh lính ngụy bị thất
thủ từ Xuân Lộc, Trảng Bom... tháo chạy về Sài Gòn theo ngã xa lộ Đại Hàn. Lúc này do
phòng tuyến vòng ngoài bị đập nát, địch tan tác như ong vỡ tổ, xe tăng, pháo binh kêu theo
cả quân lính tháo chạy. Trên trời, máy bay trực thăng quần thảo như chuồn chuồn, xả súng
bừa bãi đề dọn đuờng cho bọn lính tháo chạy.Thế nên trận địa đơn vị bị nằm giữa tâm bão.
Cựu binh Nguyễn Văn Chương (nay là giáo viên cấp 3 truờng Nguyễn Trãi, TP.Biên
Hòa) nhớ lại:
Từ sáng 28-4, tôi cùng đồng đội gồng mình chịu những trận mưa pháo và đủ loại hỏa
lực của địch, kể cả từng đàn máy bay vũ trang vãi đạn như mưa rào. Cánh lính đặc công len
lỏi từng mô đất, bức tuờng nhà dân để tránh đạn, quyết sinh tử với 10 giặc để bảo vệ cầu
Gành và cầu Mới (Hóa An) chuẩn bị cho đại quân ta tiến về Sài Gòn như mệnh lệnh. Mỗi
khi tạm yên tiếng súng, nhìn qua ngó lại chỉ còn mình là nguyên vẹn, nhưng mặt mũi đen
nhẻm vì thuốc súng, tai ù đặc, chỉ nói bằng cách ra hiệu nhưng đau đớn hơn là đồng đội
chẳng còn ai, tôi gào khóc đi tìm và gặp một số chiến hữu đều nằm bất động. Có người mắt
còn mở như muốn nhắn gởi điều chi mà chưa kịp nói.
Cựu binh Nguyễn Xuân Giao lúc đó là trung đội phó trinh sát tiểu đoàn 23 kể: “Đại
đội 1 của tiểu đoàn 23 đặc công nước được tăng cuờng cho trung đoàn 113 để đánh các mục
77

9.2 Page 82

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
tiêu ở triền sông, bến cảng và giữ cầu. Lúc xuất quân có 23 cán bộ, chiến sĩ nhưng đến chiều
29-4 chỉ còn lại hai người là Trần Văn Bột và Vũ Đức Ninh. Trong số 21 đồng đội hy sinh ở
khu vực cầu Gành, có những người đã bị nước cuốn trôi. Tôi còn sống cũng là chuyện rất hy
hữu. Lúc lâm trận, tôi đang ở căn hầm dã chiến, bỗng nhiên được đồng chí Nguyễn Minh Dị
- chính trị viên tiểu đoàn truyền đạt mệnh lệnh: “Đồng chí Xuân Giao có nhiệm vụ thay thế
vị trí tiểu đoàn trưởng cùng tôi chỉ huy bộ đội chiến đấu, giữ vững trận địa đến cùng!”. Tôi
chỉ kịp nói: “Rõ!” và nhảy vọt lên khỏi công sự tức thì một quả đạn cối 81 ly của địch rơi
xuống hầm, y tá Trữ và liên lạc Thông hy sinh tại chỗ. Trong lúc trận địa đang rền vang
tiếng súng, trên hai chục thương binh được đưa về trạm phẫu đang được cấp cứu mà y tá, y
sĩ đều đã hy sinh và cần được bảo vệ, không để địch giết hại hoặc bắt sống. Tôi tổ chức lại
lực lượng và kéo khẩu súng 12,7 ly hỏa lực chính lúc này lại gần hơn để đề phòng địch tràn
lên. Và tìm vị trí cách đó tầm thước để quan sát bao quát trận địa. Đi theo tôi chỉ có vài ba
tay súng lúc ấy một xe tăng M41 của địch lù lù trườn tới. Cậu xạ thủ B40 lựa thế dương
súng kịp bắn, thi một trái đạn M79 đã trúng ngay giữa ngực chóng cướp đi mạng sống
người lính trẻ.
Truớc tình huống bất ngờ này tôi lăn máy vòng chộp lấy khẩu súng B40 là phóng quả
đạn vào đúng chỗ hiểm yếu nhất của xe tăng. Nó bùng cháy như một bó thuốc rụi, thiêu rụi
cả bọn lính trong xe, loại trừ được mấy chục hiểm họa cho mấy chục thương binh đang bị
địch đe dọa. Và giữa lúc mặt đất còn nồng nặc mùi thuốc súng, bọn giặc tràn qua trận địa để
tìm đường về Sài Gòn đang trong cơn hấp hối, trời bỗng tối sầm lại và đổ cơn mưa lớn, kéo
dài cho tới sẩm tối. Nhờ cơn mưa cứu nguy này mà đơn vị được lực lượng tiếp viện lên giải
quyết thương binh về tuyến sau”.
Như vậy là trong trận đánh sau cùng ấy, trước ngày toàn thắng 30-4-1975 lịch sử đã
có 53 cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn đặc công 113 oanh liệt hy sinh. Đó là chưa kể nhiều đồng
chí thương tích đầy mình, đến nay vẫn còn để lại di chứng trên cơ thể.
24. Nhật Quang. Khóa chặt sân bay Biên Hòa / Nhật Quang // https://www.qdnd.vn.
2015. Ngày 01 tháng 3.
Đại đội 26 pháo binh 130mm thuộc Tiểu đoàn 2, là một trong những đơn vị của
Đoàn Pháo binh Biên Hòa, đã lập công xuất sắc trong các trận đánh, pháo kích vào Sân bay
Biên Hòa những năm 1965-1968. Tháng 1-1975, Đoàn Pháo binh Biên Hòa đã tham gia trận
tiến công giải phóng thị xã Phước Long.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, Đại đội 26 (Đoàn Pháo binh Biên
Hòa) được giao nhiệm vụ đánh phá sân bay Biên Hòa.
Với yêu cầu đánh liên tục, trong khi thời gian chuẩn bị ngắn, 19 giờ ngày 9-4-1975,
đại đội được lệnh hành quân trong 3 đêm trên con đường quân sự làm gấp dài 130km, để
đến vị trí tập kết tại Hiếu Liêm (huyện Vĩnh Cửu, Đồng Nai), tập kích, khống chế sân bay
Biên Hòa. Đến 3 giờ ngày 11-4-1975, xe pháo tới trận địa. Đúng 17 giờ ngày 14-4-1975, đại
đội bắn loạt đạn đầu tiên và đánh trúng các mục tiêu tại Sân bay Biên Hòa. Bị bất ngờ, quân
địch rối loạn. Nhưng để giữ bí mật trận địa, lúc đầu ta chỉ bắn ban đêm, địch có di chuyển
một số máy bay A37 về Sân bay Cần Thơ và máy bay F5E về Sân bay Tân Sơn Nhất, nhưng
78

9.3 Page 83

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
chúng vẫn tiếp tục dựa vào đường băng bay đi đánh phá đội hình chiến đấu của bộ đội ta.
Mặc cho máy bay địch ném bom và pháo binh địch phản pháo, cán bộ, chiến sĩ Đại đội 26
kiên cường bám trụ và nghiên cứu cách đánh liên tục cả ngày lẫn đêm với phương pháp bắn
giám thị và sử dụng linh hoạt từ đơn pháo đến trung đội và đại đội. Từ ngày 17-4-1975, đại
đội chỉ bắn khi quan sát thấy máy bay địch chuẩn bị xuất kích.
Liên tục 12 ngày đêm, từ 14 đến 26-4-1975, Đại đội 26 đã chiến đấu hiệu quả, bắn
phá hủy và làm hỏng nhiều máy bay. Đặc biệt, lúc 15 giờ 30 phút, ngày 22-4-1975, Đại đội
26 đã bắn trúng kho bom, gây nổ cháy kéo dài đến sáng hôm sau. Đêm 25-4-1975, Sân bay
Biên Hòa bị tê liệt hoàn toàn do đạn pháo của đại đội bắn trúng, làm hỏng đường băng. Địch
phải di dời số máy bay còn lại về Sân bay Tân Sơn Nhất. Đại đội 26 với hàng chục trận
đánh, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ khóa chặt sân bay chiến lược Biên Hòa, khiến ngày
26-4-1975, Sân bay Biên Hòa của địch không thể hoạt động, đó cũng là ngày “N” của Chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
25. Phan Văn Trang. Kỷ niệm Biên Hòa tháng 4 năm 1975 / Phan Văn Trang //
Biên Hòa ghi nhớ và tự hào. – Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Trẻ, 1997. – Tr.135-138.
Những ngày tháng 4 năm 1975 ở Biên Hòa là những ngày đầy ắp sự kiện dữ dội và
ác liệt, nhưng phấn khởi tưng bừng trong niềm vui chiến thắng, đã để lại những ấn tượng
trong tôi không bao giờ quên.
Ngày mùng 9-4-1975, tại căn cứ Bàu Sao (bắc Trảng Bom), thường vụ Khu ủy Miền
Đông phổ biến nghị quyết, quyết tâm của Trung ương Đảng giải phóng miền Nam Việt
Nam, kết thúc 30 năm chiến tranh tàn khốc trên đất nước ta. Tin chiến thắng của quân ta
khắp nơi, binh lính ngụy thua trận từ miền Trung chạy dồn về lộn xộn nhốn nháo, nhân dân
vui mừng phấn khởi, thời cơ đã đến. Suốt một ngày làm việc rất khẩn trương mà không biết
mệt. Bao nhiêu việc đặt ra để bàn: Giải phóng Biên Hòa bằng cách nào? Làm thế nào để cán
bộ, đảng viên nội thành phát động được quần chúng nổi dậy cướp chính quyền. Tình hình
trong nội thành Biên Hòa đang diễn ra rất phức tạp, địch rất đông nhưng đang hoang mang
lo sợ quân ta tấn công.
Chúng tôi dự kiến giải phóng Biên Hòa theo hai phương án: Một là lực lượng ta tiến
công đánh dứt điểm, trót lọt, giải phóng nhanh, hai là có thể đánh giằng co nhiều ngày.
Nhưng tất cả thống nhất tập trung cho phương án một, mọi mặt dồn sức tấn công nổi dậy
giải phóng Biên Hòa nhanh gọn, không phá hủy cơ sở vật chất mà giữ trọn vẹn để sử dụng
ngay sau ngày giải phóng. Chuẩn bị nhân sự tổ chức các ủy ban khởi nghĩa phường xã, khu
công nghiệp Biên Hòa, bố trí lực lượng chỉ đạo trong nội thành, ra lời kêu gọi các tầng lớp
nhân dân nổi dậy cướp chính quyền, lời kêu gọi binh lính địch bỏ súng ra hàng quân giải
phóng...
Thường vụ Khu ủy, Bộ chỉ huy tiền phương đã nhất trí thông qua quyết tâm của
Thường vụ Thành ủy Biên Hòa và chỉ thị tôi phải đi ngay vào nội thành trong đêm đó để
phổ biến nghị quyết, tổ chức chuẩn bị mọi mặt hoạt động trong nội thành nhằm tạo thế kết
hợp lực lượng vũ trang tấn công ở bên ngoài với phát động quần chúng nổi dậy cướp chính
quyền ở bên trong thị xã. Theo kế hoạch của Bộ chỉ huy tiền phương, anh Chín Lê, anh
79

9.4 Page 84

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Mười Thà và cán bộ sẽ sang Nam lộ 1, đứng tại căn cứ Bình Sơn chỉ đạo hoạt động. Tôi làm
xong nhiệm vụ sẽ trở về gặp Bộ chỉ huy tại Bình Sơn.
Đồng chí Huỳnh Việt
Thắng (đeo kính) đang báo
cáo với đồng chí TBT Lê
Du ẩn (bên phải) về tình
hình Biên Hòa những ngày
đầu sau giải phóng. Cùng
tham dự có đồng chí
Nguyễn Văn Linh; Đại
tướng Võ Nguyên Giáp và
đồng chí Phan Trọng Tuệ
(ngồi chống tay)
Đúng ngày mùng 9.4, quân ta nổ súng tiến công Long Khánh. Mặt trận diễn ra rất ác
liệt, địch phản cùng dữ dội. Tôi nhận định tình hình, nếu không đi ngay trong ngày 9.4 thì
hôm sau khó có thể vào được nội thành Biên Hòa. Vì vậy, được phân công nhiệm vụ buổi
chiều, ngay tối hôm đó, từ căn cứ Bầu Sao tôi ngược về Gia Kiệm ra lộ 20 móc cơ sở dùng
xe honda đưa về thị xã. Khoảng 9 giờ đêm mùng 9.4, tôi đã về đến Biên Hòa đi thẳng tới
Tân Vạn gặp đồng chí Nguyễn Hồng Kỳ, phó bí thư Thành ủy đang "nằm vung" tại đó, phổ
biến Nghị quyết Trung ương giải phóng Miền Nam. Hai chúng tôi bàn kế hoạch cụ thể cướp
chính quyền ngụy tinh Biên Hòa. Mờ sáng ngày hôm sau, tôi tiếp tục lên Bửu Hòa móc nối
đồng chí Sáu Tốt và chị Hai Não tại nhà ông Chín Chúc, một cơ sở của ta, để bàn về việc
xây đựng ủy ban khởi nghĩa ở xã. Trời sáng, tôi giả làm một người chủ mua đất để mở cơ sở
sản xuất, cùng ông Chín Chúc đi coi khu vực biến thế điện Biên Hòa để bố trí lực lượng
chiếm giữ vào ngày giải phóng. Những ngày sau đó, bằng con đường công khai hợp pháp,
với một chiếc honda, tôi đi khắp nơi trong thành phố: Tân Mai, Bửu Long, Hiệp Hòa, Tam
Hiệp tổ chức họp với các đồng chí đảng viên và cơ sở nội thành xây dựng lực lượng. Nghe
phổ biến Nghị quyết giải phóng Biên Hòa, tất cả các đồng chí đều rất phấn khởi, cho biết
tình hình địch lúc này hết sức hoang mang, quần chúng nhân dân rất vui mừng, ai ai cũng
thấy địch đang thu quân ta đang thắng lớn và mong chờ ngày giải phóng.
Trong một tuần làm việc, tôi và các đồng chi trong nội thành đã tổ chức xong Ủy ban
khởi nghĩa khu công nghiệp Biên Hòa do đồng chí Bảy Hoàng, đồng chí Năm Trung và
đồng chí Năm Hòa trong Ban Công vận Thành ủy lãnh đạo. Thành lập Ủy ban khởi nghĩa
các xã: Hiệp Hòa (giao chị Ba Xuân), Tân Vạn (giao anh Sáu Tốt), Bửu Hòa (giao chị Hai
Não và anh Bảy Nga), Tam Hiệp (giao anh Ba Thiệp), Bửu Long (giao anh Út Lương), Tân
Tiến - Núi Đất (giao chị Bảy Liên), Bình Trước và nội ô Biên Hòa (giao chị Tám Huệ, anh
Ba Thắng, chị Trương Thị Sáu)... Bố trí một trung đội võ trang chuẩn bị chiếm giữ trạm
biến thế điện Biên Hòa (Bửu Hòa), tổ chức Đội biệt động phụ trách bảo vệ nhà máy nước.
80

9.5 Page 85

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Giao chị Tám Huệ tổ chức may cờ để chuẩn bị khi cướp chính quyền, ta hạ cờ địch, treo cờ
giải phóng, cờ Tổ quốc. Giao cho các đồng chí phụ trách Ủy ban khởi nghĩa chuẩn bị máy,
loa phóng thanh, ghi âm sẵn lời kêu gọi nhân dân nổi dậy, kêu gọi binh lính địch đầu hàng
quân giải phóng. Tổ chức giao nhiệm vụ cụ thể xong, các đồng chí đều hạ quyết tâm với tôi
rồi bắt tay ngay vào ráo riết chuẩn bị, bảo đảm kịp thời kết hợp khi quân chủ lực tấn công
Tôi yên tâm trở về căn cứ để báo cáo tình hình cho Bộ chỉ huy tiền phương. Tình
hình trục lộ 15 (nay là lộ 51) lúc này rất căng thẳng. Địch tập trung quân đóng dày dọc theo
trục lộ, nhất là ở khu vực Long Thành, Bình Sơn đề phòng quân ta tấn công từ hướng đó ra.
Trong khi đó, trở về căn cứ tôi còn đi cùng với đồng chí Huỳnh Văn Sang (Bảy
Sang) là thành đội trưởng Biên Hòa hai chúng tôi đi trên một chiếc honda theo lộ 15 đến An
Lợi (Long Thành), nhờ một cơ sở ở An Lợi đi trước dẫn đường. Đến Bình Sơn, bọn lính
chặn lại hỏi: "Việt Cộng trong đó đông quá trời, các ông vào làm chi?". Tôi trả lời: "Tôi là
chủ cơ sở cao su ở trong đó, không thể bỏ sở được". Bọn chúng phải cho tôi đi. Qua tuyến
địch vài trăm thước, chúng tôi phóng thẳng vào lô cao su và được anh em đón, đưa về căn
cứ. Nghe tôi báo cáo về tình hình tổ chức lực lượng nội thành, các đồng chí trong Bộ chỉ
huy tiền phương rất phấn khởi.
Tại căn cứ Bình Sơn, lúc này đã tập trung hơn 500 cán bộ của Khu miền Đông về
giúp chuẩn bị tiếp quản Biên Hòa. Ngày 21.4.1975, ta giải phóng tỉnh lỵ Long Khánh, niềm
tin càng được củng cố, mặc dù địch vẫn phản cùng quyết liệt, bom pháo xối xả đêm ngày
nhưng mọi người đều phấn khởi bàn bạc tính toán đủ cách để về cướp chính quyền, tiếp
quản tỉnh lỵ Biên Hòa trọn vẹn.
Theo kế hoạch, những ngày sau đó, Bộ chỉ huy tiền phương cùng Thành ủy Biên Hòa
chúng tôi quay trở lại khu vực Long Khánh rồi lên Gia Kiệm phối hợp với bộ đội chủ lực
Quân đoàn 4 tổ chức lực lượng tiến công về Biên Hòa. Chiến dịch mở ra bằng những
trậnđánh liên tục, dữ dội dọc theo quốc lộ 1.
Ta diệt gọn bọn địch tại ngã ba Dầu Giây, tiêu diệt căn cứ địch tại ngã ba sông Thao,
đánh dứt điểm yếu khu Trảng Bom, giải phóng thị trấn Trảng Bom ngày 27.4. Theo đà
thắng lợi, quân ta tiếp tục tiến công về chốt tại cống Suối Đỉa. Đến đây thì có một tình
huống là pháo địch bắn rất dữ dội và khá chính xác. Mỗi lần xe tăng, bộ binh, xe chở pháo
của ta xuống là pháo địch lại bắn chặn, gây thương vong nhiều cho bộ đội. Chúng tôi nhận
định chắc chắn địch có bố trí đài quan sát quanh khu vực này, và cho ngay một đại đội truy
lùng. Ba giờ chiều, các chiến sĩ đã bắt quả tang được một tên địch đang sử dụng máy
PRC25 kêu bắn pháo. Bắt được tên điệp báo này, lực lượng của Quân đoàn tiếp tục tiến
không bị địch bắn chặn nữa.
Đêm 29.4, Sư đoàn 6 và Trung đoàn 5 cùng chúng tôi đã đến được Hố Nai 4. Mười
hai giờ đêm, đoàn chúng tôi gặp được anh chị em tù chính trì trong trại giam Tân Hiệp đã tự
phá khám ra. Trong bom pháo đầy trời, chúng tôi gặp nhau vui mừng đến trào nước mắt.
Tôi nghẹn ngào trong niềm vui gặp được vợ tôi sau năm xa cách. Bảy năm qua, đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã bắt, tra tấn, giam cầm vợ tôi từ Côn Đảo về đến nhà giam Tân
Hiệp, nay lại được sum vầy trong giây phút thiêng liêng và dữ dội này của cuộc chiến tranh
giải phóng. Chúng tôi chỉ có một giờ đồng hồ để trò chuyện với nhau rồi tôi tiếp tục đi cùng
81

9.6 Page 86

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
bộ đội tiến công, gửi vợ tôi ở lại bộ chỉ huy tiền phương cùng các anh chị em tù chính trị để
tổ chức đưa về phía sau.
Sáng 30.4.1975, chúng tôi nhận được lệnh phải đánh chiếm Quân Đoàn 3 ngụy, sân
bay Biên Hòa trong buổi sáng để Quân đoàn 4 của ta tấn công về Sài Gòn. Khi bắt đầu hành
quân, nghe trên Radio, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng Quân giải phóng, chúng tôi
thông báo toàn quân khẩn trương tiến về Biên Hòa. Theo bố trí lực lượng thì Quân đoàn 4,
Sư đoàn 6 chiếm giữ Quân đoàn 3 ngụy, sân bay Biên Hòa, nhưng cầu Hóa An đã bị địch
phá sập nên lực lượng quân đoàn 4 phải theo đường Tam Hiệp ra xa lộ tiến về Sài Gòn. Còn
chúng tôi và Ban chỉ huy Trung đoàn 5 tiến về Biên Hòa. Từ nhà thương Tâm Thần cho đến
tận trung tâm thành phố, đồng bào kéo nhau ra đường vẫy tay, vẫy hoa, vẫy cờ chào mừng
Quân giải phóng. Hàng trăm xe honda chạy theo xe bộ đội đến công trường Sông Phố, đồng
bào cũng đã tập trung tại đây rất đông. Chúng tôi dừng lại nói chuyện với đồng bào. Mọi
người đều rất vui mừng.
Ngay sau khi chiếm tòa hành chính tỉnh, các lực lượng được triển khai nhanh chóng.
Theo kế hoạch: anh Nguyễn Thanh Bình, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 5 điều trung đoàn
triển khai giữ các chốt ngã ba Vũng Tàu, ngã tư Bửu Long, đài Kỷ niệm, Cầu Gành, Cầu
Rạch Cát, ngã ba Tam hiệp và đưa một tiểu đoàn tiếp quản giữ khu công nghiệp Biên Hòa.
Anh Tư Nam, trong Ủy ban quân quản, phụ trách an ninh triển khai lực lượng an ninh, tổ
chức đồng bào giữ gìn trật tự, phát hiện binh lính ngụy còn ẩn náu để gọi ra trình diện.
Chúng tôi tổ chức ngay một cuộc họp với đầy đủ các đồng chí trong Thành ủy Biên
Hòa và cán bộ của Khu ủy Miền Đông tăng cường để triển khai những nhiệm vụ trước mắt.
Tiếp quản một thành phố đông dân trong khi còn hỗn loạn thì vấn đề đầu tiên là phải có điện
thắp sáng cho đồng bào, có nước cho sinh hoạt, giao trách nhiệm cho anh Hai Để tiếp quản
cơ quan điện lực, giao cho anh Đỗ Thành Huống tiếp quản nhà máy nước, vận hành ngay
điện, nước. Khu công nghiệp Biên Hòa cũng được giữ gìn trọn vẹn không hề hư hao mất
mát. Chúng tôi xây dựng ngay một bộ phận chỉ đạo khu công nghiệp, nắm lại toàn bộ tài sản
ở các nhà máy, kêu gọi công nhân trở lại làm việc. Đồng thời tổ chức bộ máy chính quyền
cách mạng, chuyển từ Ủy ban khởi nghĩa sang Ủy ban nhân dân cách mạng xã phương để lo
quản lý xã hội, giải quyết các hậu quả sau chiến tranh.
Giờ đây, sau 20 năm giải phóng, nhớ lại những ngày tháng Tư lịch sử ởBiên Hòa, tôi
vẫn không bao giờ quên hình ảnh của hàng ngàn đồng bào đứng chật trong sân tòa hành
chánh tỉnh (nay là Ủy ban Nhân dan tỉnh trong Nai). Lá cờ “ba que" của ngụy quyền Sài
Gòn đã bị giật xuống, xé nát. Cờ bỏ sao vàng - quốc kỳ của Tổ quốc Việt Nam thân yêu
phất phới bay. dưới chân cột cờ, 11 giờ trưa 30.4.197 đồng bào Biên Hòa tặng tôi một bó
hoa. Ôm bó hoa trong lòng, miệng cười vui nhưng nước mắt cứ cháy: "Nước mắt dành cho
ngày gặp mặt". Cũng nơi đây, với chiếc gậy tầm vông, đồng bào ta đã cướp chính quyền từ
tháng 8.1945, rồi 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp đến 21 năm chống đế quốc
Mỹ xâm lược, nay chúng tôi đã trở về đây với nhân dân Biên Hòa thân yêu trong niềm vui
thắng lợi trọn vẹn.
82

9.7 Page 87

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
26. Phan Văn Trang. Quân dân Biên Hòa bám trụ kiên cường chiến thắng vẻ vang /
Phan Văn Trang // Biên Hòa ghi nhớ và tự hào. – Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Trẻ, 1997. –
Tr.39 - 44.
Nhớ lại những năm tháng chiến đấu kiên cường và vẻ vang của các lực lượng vũ
trang và nhân dân trên chiến trường Biên Hòa, tôi xin ghi lại vài nét trong thời kỳ đế quốc
Mỹ leo thang gây chiến tranh cục bộ. Đó là vào giữa năm 1965, bọn xâm lược Mỹ và chư
hầu ồ ạt đổ quân vào miền Nam Việt Nam. Tại Biên Hòa, Mỹ đã ủi phá khu căn cứ cách
mạng Bình Đa, xây dựng xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa, lập tổng kho liên hợp Long Bình - kho
vũ khí xăng dầu lớn nhất ở miền Nam cung cấp bom, đạn, súng ống cho các binh chủng Mỹ
ngụy đánh ta. Sân bay quân sự Biên Hòa được xây dựng mở rộng trở thành một căn cứ
không quân chiến lược loại lớn nhất Đông Nam Á. Tại đây, máy bay Mỹ xuất phát đánh
bom, bắn phá trong tỉnh và các tỉnh phía Nam, yểm trợ cho các cuộc càn quét của quân đội
Mỹ ngụy và đánh bom phía Bắc gây biết bao nhiêu tội ác đối với nhân dân hai miền Nam -
Bắc. Tại thị xã Biên Hòa, chúng còn xây dựng các căn cứ lớn đóng quân của Mỹ như sư
đoàn dã chiến 2, lữ đoàn 199, lữ đoàn 173, căn cứ sư đoàn 101 (Mỹ) tại Hóc Bà Thức, hậu
cứ quân đoàn 3 ngụy, sư đoàn 18 ngụy, Nha cảnh sát miền Đông, các lực lượng bảo an dân
vệ, phòng vệ dân sự công an, tình báo v.v... được địch bố trí dày đặc trong nội thành và
vùng ven ngoại ô thị xã Biên Hòa, ra sức kềm kẹp, đánh phá phong trào cách mạng của
quần chúng rất ác liệt. Hàng ngày, bọn công an, dân vệ lùng sục bắt bớ đánh đập những
người dân yêu nước. Bên ngoài thì Mỹ tập trung đánh phá các vùng căn cứ của ta ở nam
bắc lộ 1, nam bắc sông Đồng Nai. Máy bay B52 liên tục bỏ bom đợt này qua đợt khác, sau
đó là pháo bầy từ các trận địa pháo dã chiến 2, ở Ba Dốc, yếu khu Trảng Bom, Sông Thao,
Kiệm Tân v.v... bắn xối xả; xe cơ giới ủi phá địa hình Bàu Sao, Bàu Sình, Giang Tới, Đại
An, rừng Thiện Tân, vùng Bàu Cối, suối nước đục Nam lộ 1 v.v.... Mục tiêu của kẻ thù là
quyết tâm diệt quân chủ lực ta, tiêu diệt lực lượng cách mạng tại chỗ, đẩy lực lượng võ
trang ta ra xa để bảo vệ an toàn hậu cứ của chúng. Địch quyết giữ Biên Hòa để bảo vệ Sài
Gòn - đầu não của chế độ Mỹ ngụy.
Trong hoàn cảnh cực kỳ ác liệt và khó khăn đó, với tinh thần cách mạng tiến công,
cấp uỷ, các ban ngành và lực lượng vũ trang U1 (Biên Hòa) vẫn quyết tâm bám trụ chiến
trường để tấn công địch; xác định trách nhiệm trong cấp uỷ Đảng, cán bộ, đảng viên, chiến
sĩ lực lượng võ trang phải bám chiến trường, bám dân mới hoàn thành nhiệm vụ, lấy tấn
công để bảo tồn lực lượng, đánh địch để bảo vệ mình. Từ cơ quan Dân-Chính-Đảng đến
đơn vị bộ đội đều được huấn luyện cách đánh trái, sưu tầm bom lép, đầu đạn 105 ly lép...
làm kíp nổ để đánh địch. Do đó, hễ quân Mỹ càn vào đụng cơ quan đơn vị nào cũng đều
đánh được địch, gây nhiều thương vong cho lính Mỹ. Lính Mỹ lớn con nhưng khi bị thương
thì la rống lớn tiếng, mất tinh thần chiến đấu. Ta lại phát hiện được cái nhược của Mỹ khi
càn là chỉ một đường cắt rừng mà đi tới nên rất dễ đặt trái để đánh, gây cho chúng nhiều
thương vong. Nhờ bám được chiến trường, bám dân mà liên tục bộ đội đặc công của U1
đánh được kho Long Bình, đánh được sân bay Biên Hòa, phá hủy nhiều bom đạn xăng dầu
của địch, phá hủy nhiều máy bay quân sự, hỗ trợ được chiến trường chung toàn miền. Đồng
thời đánh được bọn "bình định nông thôn", phá "ấp chiến lược", gỡ kềm kẹp cho dân bung
83

9.8 Page 88

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
ra sản xuất làm ăn. Dân ở vùng Bàu Hàm, Hưng Lộc, Hưng Nghĩa, Trảng Bom, Bàu Cá,
Trà Cổ, vùng Đại An, Tân Định, Thiện Tân v.v... rất chí cốt với cách mạng, đã tìm mọi
cách qua mắt địch, tiếp tế cho bộ đội. Lúc này địch chận xét rất gắt gao. Dân đi vào rẫy đem
theo gạo, muối, chúng xét gặp là bắt đánh đập ngay tại chỗ rồi dẫn về đồn giam, tra tấn
Địch quyết bao vây phong tỏa kinh tế, cắt nguồn tiếp tế lương thực cho bộ đội, cơ quan.
Nhưng, nhân dân cũng bằng mọi cách đem gạo, muối, thức ăn cho bộ đội, địch chận ngõ
này thì đồng bào lánh đi ngõ khác. Không đem muối hạt được thì hòa tan muối thành nước
đem vào để bộ đội nấu lại lấy muối ăn. Nghi trang khéo léo, giấu gạo, thuốc trị bệnh dưới
đáy thùng; để phân bón cây trên lớp mặt, vượt qua các trạm gác của địch, hoặc mua gạo để
sẵn trong nhà, đêm bộ đội vào mang về ăn. Đêm đêm, cơ sở trong ấp làm ám hiệu, hễ có
lính phục kích thì thắp đèn sáng, không có lính thì nhà không đất đèn để bộ đội biết tình
hình mà vào, không bị thiệt hại.
Nhờ bám được chiến trường, gần dân, dân cung cấp tình hình cho bộ đội đánh địch,
đánh bọn ác ôn kềm kẹp quần chúng để quần chúng bung ra làm ăn. Ta xây dựng được cơ
sở tạo được thế giữ được địa bàn, cán bộ, chiến sĩ ít bị thương vong và cơ quan đơn vị được
bố trí ở đâu là ở đó có xây dựng ngay công sự để đánh địch, bảo tồn lực lượng mình.
Đây là bài học quý giá đối với Đảng bộ Biên Hòa - Vững vàng trước khó khăn,
không chao đảo, không bi quan dao động, không đầu hàng kẻ thù, thà hy sinh chớ không
chịu sống quỳ. Nhờ đó, đã phát huy được cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thực hiện
được nhiệm vụ. Chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968, mặt trận Biên Hòa cũng là một điểm chỉ
đạo của Trung ương cục và Bộ chỉ huy quân sự miền Nam. Đồng chí Lê Đức Anh, lúc đó là
Tư lệnh phó, tham mưu trưởng của lực lượng vũ trang miền Nam đã đến tận căn cứ Bàu Sao
(Bắc Trảng Bom) phổ biến chủ trương chiến dịch Xuân Mậu Thân và mệnh lệnh tấn công
của Bộ tư lệnh Sư đoàn 5, cho Tỉnh uỷ U1 và Bộ chỉ huy quân sự Biên Hòa tổ chức lực
lượng tấn công, lực lượng ta tập trung cho chiến dịch Mậu Thân tại Biên Hòa rất mạnh, Sư
đoàn 5 chủ lực của Miền, Trung đoàn 33, Trung đoàn 4, Trung đoàn pháo, tên lửa, các tiểu
đoàn đặc công 1, 2 của Biên Hòa, đội biệt động Biên Hòa. Mục tiêu tấn công của chủ lực ta
là căn cứ dã chiến 2 của Mỹ, quân đoàn 3, sân bay Biên Hòa, Tổng kho Long Bình, các
điểm trong nội thành Biên Hòa. Lực lượng ta áp sát các mục tiêu. Đúng giờ G ngày N, quân
ta đồng loạt tấn công. Pháo, tên lửa của ta văn vào sân bay Biên Hòa, nổ lửa phải cháy. Các
mũi tiến công của lực lượng bộ binh đều nổ súng. Tiếng súng nổ rền khắp các mục tiêu đã
định. Bộ đội ta đánh từ 0 giờ đêm đến sáng và suốt ngày sau, tiêu diệt nhiều lính Mỹ, phá
hủy nhiều máy bay. Tại kho Long Bình, đặc công ta đánh phá hủy kho đạn ở đồi 50, đồi 53.
Những ngày sau, bộ đội ta tiếp tục đánh. Mỹ phản kích ác liệt chiến sĩ ta có bị thương vong
nhưng đã được nhanh chóng tổ chức chuyển về tuyến sau cứu chữa. Chiến dịch Xuân
Mậu Thân ta đạt được yêu cầu đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải
xuống thang.
Từ “chiến tranh cục bộ” ở đỉnh cao phải chuyển sang “Việt Nam hóa chiến tranh”,
quân viễn chinh Mỹ và quân chư hầu lần lượt rút quân về nước. Không có chiến dịch Xuân
Mậu Thân 1988 thì không thể có việc Mỹ chịu lùi bước. Chuyển hướng chiến lược thụt lùi
là chứng tỏ Mỹ chấp nhận thua trận ở Việt Nam. Mặc dù đế quốc Mỹ xuống thang, nhưng
84

9.9 Page 89

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
đối với chiến trường Biên Hòa tình hình vẫn còn rất ác liệt. Mỗi đợt rút quân, là các lữ đoàn
173, 199, Sư 25 Mỹ càn quét, B52 bỏ bom đánh phá ác liệt các căn cứ ta để bảo vệ hành
lang cho chúng rút quân. Lực lượng ta củng cố đội ngũ và tiếp tục đánh địch càn quét trong
căn cứ. Chiến dịch Xuân 1969 rồi chiến dịch năm 1972, lực lượng ta vẫn sung sức tiếp tục
đánh sân bay, kho Long Bình, đánh bọn bảo an tại ga xe lửa, đánh Ty cảnh sát Biên Hòa,
tiêu diệt tiểu đoàn biệt động quân tại Suối Săng Máu. Địch phản kích, bom pháo ác liệt, bao
vây phong tỏa kinh tế. Cán bộ, chiến sĩ Biên Hòa phải chịu đựng gian khổ. Năm 1970, tình
hình quá khó khăn, cơ quan, bộ đội thiếu gạo ăn phải ăn củ từ rừng, lá bép, trái chuối xanh,
đậu nành, bắp, khoai, đu đủ, bí rau v.v... Bàu rau muống tại Bàu Hàm cứ mỗi tối, bộ đội cắt
từng bồng về ăn thay gạo, ăn rau, củ nhưng địch càn vẫn đánh diệt địch. Vẫn tổ chức đánh
kho Long Bình, sân bay Biên Hoà theo lệnh cấp trên. Có lần tiểu đoàn 1 trước khi vào trận,
đến Tỉnh uỷ yêu cầu cho mỗi chiến sĩ một lít gạo nấu ăn no để đi đánh giặc, Tỉnh uỷ đã lấy
gạo dự phòng cấp cho bộ đội. Tình cảm giữa Đảng với lực lượng vũ trang và nhân dân càng
gắn bó trong nhiệm vụ giết giặc, giải phóng quê hướng đất nước. Ngoài nhiệm vụ đánh hậu
cứ kho tàng của địch, lực lượng vũ trang Biên Hòa còn phải đánh phá ấp chiến lược, phá
thế kềm kẹp của địch ở vùng Bàu Hàm, Hưng Lộc, Thiện Tân, Tân Định, Đại An. Phát
động quần chúng đấu tranh chống khủng bố trả thù, chống phá âm mưu gom dân của địch,
đòi tự do đi lại làm ăn. Trong nội thành, Đảng lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi dân sinh
dân chủ, chống mọi áp bức bóc lột của địch, giành quyền lợi cho quần chúng. Đồng bào
trong nội thành Biên Hòa tuy bị địch kềm kẹp gắt gao nhưng vẫn một lòng yêu nước, ủng
hộ cách mạng. Bà con ở Gò Me, lân Thành đào hầm bí mật cho bộ đội về trú ẩn để đánh
địch xuân 1969. Đồng bào ở xã Hiệp Hòa, ấp An Hảo, Bình Đa xã Bửu Hòa, xã Tân Vạn
v.v...đào hầm bí mật chứa cán bộ, lực lượng võ trang về ở để đánh địch. Ai mà biết được
hết tấm lòng son sắt thủy chung với cách mạng, dù ở tận sâu trong lòng địch vẫn hướng về
cuộc chiến đấu chánh nghĩa giải phóng dân tộc, để mọi người thoát khỏi cảnh áp bức của
bọn cướp nước và bán nước.
Có thể nói, những năm vô cùng ác liệt đó, cán bộ chiến sĩ Biên Hòa đã thể hiện đúng
mức chủ nghĩa anh hùng cách mạng, kiên cường giữ vững thế tiến công địch, giành nhiều
thắng lợi, lập nên những thành tích xuất sắc.
Mùa xuân năm 1975, chuẩn bị cho chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam,
nhiều cán bộ, đảng viên cộng sản đã hòa mình với dân, được dân tin yêu đùm bọc. Các
đồng chí Nguyễn Hồng Kỳ, nữ đồng chí Tám Huệ, Ba Thiệp, Sáu Tốt, Hai Não v.v... đã
vào ở được trong nội thành làm ăn như mọi người dân để giữ thế hợp pháp hoạt động cách
mạng và tiến hành tổ chức Uỷ ban khởi nghĩa ở khu công nghiệp Biên Hòa, các xã ngoại
thành và nội ô.
Sau khi kết thúc thắng lợi 12 ngày đêm tiêu diệt dịch tại tỉnh lỵ Long Khánh, 2 quân
đoàn chủ lực của ta đánh vào Biên Hòa: Quân đoàn 2 đánh vào căn cứ địch ở Nước Trong,
quận lỵ Long Thành, căn cứ Thành Tuy Hạ và tiến về Sài Gòn. Quân đoàn 4 đánh vào Biên
Hòa. Khó có thể hình dung được khi chiến dịch tấn công về Biên Hòa, bom, pháo ác liệt
như thế nào! Pháo địch cấp tập bắn dọc quốc lộ 1, nhưng bộ đội ta vẫn tiến lên tiêu diệt
địch ở ngã ba Dầu Giây, yếu khu Trảng Bom rồi đánh về hướng Biên Hòa. Đêm 29-4, hàng
85

9.10 Page 90

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
ngàn anh chị em tù chính trị ở trại giam Tân Hiệp phá khám kéo ra gặp bộ đội trên đường
hành quân, mừng vui trào nước mắt, mặc cho pháo địch cứ bắn điên cuồng.
Trong niềm vui chung đó, tôi lại hân hạnh có niềm vui riêng. Tôi gặp lại vợ tôi đã bị
địch bắt tra tấn giam cầm 7 năm, được gặp lại trong giờ phút ấy, tôi rất xúc động. Vợ chồng
gặp nhau trong phút chốc rồi lại chia tay. Tôi đi với bộ đội tiếp tục cuộc tấn công giải
phóng Biên Hòa. Sáng 30-4-1975, lực lượng xe tăng, pháo binh ta tiến về chiếm tỉnh lỵ
Biên Hòa. Trên đường vào Biên Hòa, đồng bào hai bên đường ra mừng quân giải phóng.
Hàng ngàn xe Honda chạy theo xe quân giải phóng vào trung tâm thành phố.
10 giờ 30 ngày 30-4-1975, Biên Hòa hoàn toàn giải phóng. Các lực lượng vũ trang
địa phương nhanh chóng triển khai tiếp quản nội thành, ngoại thành và khu công nghiệp
Biên Hòa. Sân bay và kho Long Bình do bộ đội chủ lực Quân đoàn 4 tiếp quản. Trong khi
đó, đồng bào tập trung hàng ngàn người tại Công trường Sông Phố, và tại sân bay Tòa hành
chánh tỉnh do ta mới tiếp quản. Chúng tôi nói chuyện với bà con trong không khí tưng bừng
của mọi tầng lớp nhân dân thành phố Biên Hòa, mừng ngày giải phóng đất nước, giải phóng
và làm chủ Biên Hòa thân yêu.
27. Tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng toàn tỉnh // Địa chí Đồng Nai.
– Đồng Nai: Nxb. Đồng Nai.
T.3 : Lịch sử. – 2001. Tr. 362-366.
Sau sự thất bại ở Xuân Lộc, ngày 23 tháng 4 tổng thống Mỹ tuyên bố: “cuộc chiến
tranh ở Việt Nam đã chấm dứt đối với người Mỹ…” Nguyễn Văn Thiệu vội vã công bố từ
chức tổng thống chuồn sang Mỹ. Trần Văn Hương lên thay, sau đó, ngày 28-4-1975, Dương
Văn Minh thay Hương làm tổng thống Việt Nam Cộng hòa.
Địch vá víu 5 sư đoàn chủ lực tan rã từ miền Trung và Xuân Lộc về chốt giữ vòng
cung: Biên Hòa Long Bình Tây Ninh Long An.
Ở Biên Hòa, sư đoàn 18 sau khi tháo chạy khỏi Xuân Lộc, nhưng củng cố lại thành 3
chiến đoàn án ngữ quốc lộ 1. Tàn quân bảo an Xuân Lộc chạy về kết hợp với bảo an thị xã
Biên Hòa thành 2 liên đoàn 933 và 318, cùng với lữ đoàn 468 thủy quân lục chiến án ngữ
quốc lộ 15. Lữ đoàn 3 kỵ binh và lữ đoàn 258 thủy quân lục chiến chốt giữ khu vực Biên
Hòa – Long Bình. Hai lữ đoàn dù đảm nhiệm giữ các cầu: Đồng Nai, Rạch Chiếc, cầu
Gềnh, cầu Hóa An… và tuyến ngoại vi Sài Gòn.
Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định chiến dịch giải phóng
Sài Gòn – Gia Định mang tên là: CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH.
Lực lượng quân chủ lực ta tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh tương đương 5 quân
đoàn và tiến vào Sài Gòn từ 4 hướng:
- Hướng bắc từ Bình Dương (theo quốc lộ 13) do quân đoàn 1 đảm nhiệm.
- Hướng đông – đông bắc từ Biên Hòa theo quốc lộ 1 và 15 do quân đoàn 4 và quân
đoàn 2 đảm nhiệm.
- Hướng tây bắc từ Tây Ninh do quân đoàn 3 đảm nhiệm.
- Hướng tây nam – Long An do đoàn 232 đảm nhiệm.
86

10 Pages 91-100

▲back to top

10.1 Page 91

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Để chuẩn bị cho chiến dịch cuối cùng quét sạch quân thù, từ ngày 9 – 4, đồng chí
Phan Văn Trang, Bí thư Thành ủy Biên Hòa vào nội thành triển khai kế hoạch chuẩn bị phát
động quần chúng nổi dậy, thành lập 10 Ủy ban khởi nghĩa trong nội ngoại thành phố. Ngày
16 tháng 4, Thành ủy Biên Hòa ra nghị quyết về “Tổng công kích và nổi dậy ở thị xã Biên
Hòa”.
Chiến dịch Hồ Chí Minh trên địa bàn Biên Hòa hình thành hai mũi tiến công của 2
quân đoàn chủ lực. Quân đoàn 4 tiến vào Sài Gòn – Gia Định theo quốc lộ 1 và xa lộ Biên
Hòa. Quân đoàn 2 sau khi đập tan tuyến phòng thủ ở Phan Rang vào đến Xuân Lộc, tiến
công vào Sài Gòn – Gia Định theo hai mũi là quốc lộ 15 và bến phà Cát Lái.
Sư đoàn 2 đặc công (mới được thành lập) có nhiệm vụ đánh chiếm các cầu Đồng Nai
trên xa lộ, cầu Rạch Chiếc, cầu Gành, cầu Rạch Cát và quốc lộ 1 đảm bảo cho đại quân ta
tiến về Sài Gòn được thuận lợi.
Ngày 26 tháng 4 năm 1975 chiến dịch lịch sử mang tên chủ tịch Hồ Chí Minh bắt
đầu. Tại Biên Hòa trận địa pháo tầm xa 130 ly ở Hiếu Liêm (chiến khu Đ) nã đạn dồn dập
vào các căn cứ sân bay Biên Hòa, các sư đoàn bộ binh đồng loạt tấn công. Sư đoàn 6 tiến
công yếu khu Trảng Bom. Sư đoàn 7 tiến công các căn cứ địch dọc lộ 1 đến Hố Nai. Lực
lượng vũ trang huyện Thống Nhất và nhân dân nổi dậy giải phóng toàn huyện vào ngày 27 –
4 1975.
Ngay từ 17 giờ ngày 26 tháng 4 đạn pháo 130 ly của ta trùm lên căn cứ Nước
Trong (Long Thành ). Pháo vừa ngưng, bộ binh xe tăng ta từ nhiều hướng tiến công mãnh
liệt. Sư đoàn 304 Quân đoàn 2 đánh chiếm căn cứ Nước Trong. Sư đoàn 325 Quân đoàn 2
tiến vào chi khu Long Thành. Lực lượng vũ trang địa phương tiểu đoàn 240 Biên Hòa phối
hợp với quân chủ lực đánh phân khu Phước Thiền.
Đêm 26 rạng 27 – 4 tiểu đoàn thuộc trung đoàn đặc công 116 đánh chiếm khu trung
tâm tổng kho Long Bình, cụm bố phòng Bến Gỗ, tiến chiếm và chốt giữ cầu Đồng Nai.
Đêm 27 rạng 28 tiểu đoàn 174 và tiểu đoàn 23 đánh chiếm cầu Hóa An (cầu Mới), cầu
Gành, cầu Rạch Cát…
Ngày 27 tháng 4 sư đoàn 6 và sư đoàn 7 Quân đoàn 4 quét sạch địch ở ngã ba Dầu
Giây, trận địa pháo Sông Thao, tiến lên tiêu diệt địch và làm chủ chi khu Trảng Bom, Bàu
Cá; sư đoàn 325 Quân đoàn 2 làm chủ chi khu Long Thành. Ngày 27 tháng 4 sân bay quân
sự Biên Hòa hoàn toàn bị tê liệt.
Ngày 28 tháng 4 hướng Biên Hòa sư đoàn 6, sư đoàn 7 đánh các cụm quân địch dọc
theo quốc lộ 1 từ Suối Đỉa, Trà Cổ và truy kích địch về căn cứ ở Hố Nai. Tám giờ 30 phút
trung tướng Nguyễn Văn Toàn tư lệnh quân đoàn 3 đến Long Bình giao nhiệm vụ “tử thủ”
cho tướng Lê Minh Đảo tư lệnh sư đoàn 18 rồi lên máy bay chuồn thẳng. Các tướng tá trong
Bộ tư lệnh quân đoàn 3 cũng cuốn gói chuồn về Sài Gòn. Sở chỉ huy quân đoàn 3 chỉ còn
viên thiếu tá quản trị hành chánh quân đoàn tiếp tục “tử thủ”.
Hai giờ sáng ngày 26 tháng 4 tiểu đoàn 9 trung đoàn đặc công 113 tập kích căn cứ
thiết đoàn 15 tại Hóc Bà Thức bắt sống tên chỉ huy. Sư đoàn 6 phát triển ra ga Long Lạc. Sư
đoàn 6 cùng sư đoàn 7 tiến quân về Hố Nai trước sự chống cự điên cuồng của địch.
87

10.2 Page 92

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Tại khu kỹ nghệ Biên Hòa, Ủy ban khởi nghĩa của Thành ủy Biên Hòa phát lệnh
đánh địch. Lập tức cơ sở mật trong 17 nhà máy lãnh đạo tự vệ và công nhân nổi dậy. Trên
200 công nhân và nông dân khu vực Bình Đa, Tam Hiệp cùng nổi dậy hỗ trợ cơ sở mật ở
khu kỹ nghệ. Cờ giải phóng được kéo lên trung tâm SONADEZI và các nhà máy. Cơ sở nội
tuyến của Thành ủy Biên Hòa lái 2 chiếc xe thiết giáp M113 của địch đầy ắp súng đạn, dẫn
đầu đoàn người tiếp tục truy kích tàn quân địch trong khu kỹ nghệ, bắt sống tên Lành cảnh
sát trưởng khu kỹ nghệ, thu toàn bộ hồ sơ.
Đến chiều 29 tháng 4, hầu hết các nhà máy Khu kỹ nghệ Biên Hòa và một số ấp lân
cận hoàn toàn giải phóng.
Sau hơn một ngày liên tục tiến công, đến 11 giờ ngày 29 tháng 4 sư đoàn 304 làm
chủ căn cứ ngã ba Thái Lan, quét sạch địch từ căn cứ Nước Trong đến tổng kho Long Bình,
phát triển về xa lộ Biên Hòa. Sư đoàn 325 đã làm chủ chi khu Nhơn Trạch và tiếp tục tiến
công Thành Tuy Hạ, chiếm được đồi Bình Phú, đặt trận địa pháo 130 ly. Đêm 29 tháng 4 tại
đồi Bình Phú pháo binh ta nã đạn dồn dập vào sân bay Tân Sơn Nhất. Đến chiều 29 tháng 4
toàn bộ địch ở Long Thành – Nhơn Trạch bị quét sạch, sư đoàn 325 tập kết ở bến phà Cát
Lái, nơi đây Huyện ủy Nhơn Trạch đã chuẩn bị trên 100 ghe thuyền sẵn sàng đưa lực lượng
quân đoàn 2 tiến vào Sài Gòn.
Sáng 30 tháng 4 từ Long Thành, Nhơn Trạch - lữ đoàn tăng 203 đến cầu Đồng Nai.
Trung đoàn đặc công 116 sau 3 ngày đếm đánh chiếm giữ cầu đã lên xe tăng dẫn đường cho
lữ đoàn 203 hành quân vào đánh chiếm dinh Độc Lập. Sư đoàn 325 (quân đoàn 2) dùng
xuồng, ghe máy, ghe chèo tay… ào ạt vượt sông - tại bến phà Cát Lái cùng tiến vào Sài
Gòn.
15 giờ ngày 29-4-1975, tù nhân trong nhà tù Tân Hiệp nổi dậy phá khám ra quốc lộ 1
về hướng Trảng Bom. Đến tối ngày 29-4 đoàn đến Bộ chỉ huy tiền phương Mặt trận Biên
Hòa, được đưa về chỉ huy sở sư đoàn 6 tại nhà thờ Bắc Hòa (Hố Nai). Pháo địch vẫn còn
bắn xối xả dọc quốc lộ 1. Bộ phận tiếp nhận đưa tù nhân về hướng Gia Kiệm. Lực lượng ta
tiếp tục tiến công. 6 giờ sáng ngày 30-4-1975, Bộ Tư lệnh sư đoàn 6 đến ngã ba Kẻ Sặt,
cùng lúc đài phát thanh Sài Gòn thông tin tổng thống ngụy Dương Văn Minh đầu hàng.
Quân đoàn 4 nhanh chóng triển khai lực lượng tiến về Sài Gòn. Sư đoàn 6 tiếp quản sân bay
Biên Hòa, tổng kho Long Bình.
6 giờ sáng 30-4-1975, đảng viên mật Trương Thị Sáu (chi bộ Đảng chợ Biên Hòa)
được anh Muộn, cơ sở nội tuyến bảo vệ đã hạ cờ ba que thượng cờ Tổ quốc ở Tòa hành
chánh tỉnh Biên Hòa. 10 giờ 30 phút sáng 30-4-1975, Ủy ban Quân quản thành phố Biên
Hòa, trung đoàn 5 tiến vào tiếp quản Tòa hành chánh Biên Hòa trong tiếng reo hò, hoan hô
của hàng ngàn quần chúng trong thành phố Biên Hòa.
Lịch sử đã lập lại một cách kỳ diệu. Ba mươi năm trước (26-8-1945), nhân dân Biên
Hòa đã chiếm Tòa bố giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám. Ba mươi năm sau,
một lần nữa quân dân Biên Hòa cắm cờ ở Tòa hành chánh, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng
quê hương, cùng cả nước bước vào kỷ nguyên độc lập thống nhất đất nước và đi lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
88

10.3 Page 93

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
PHẦN III
ĐỒNG NAI TỰ HÀO VỮNG BƯỚC
28. Cao Tiến Dũng. Tỉnh Đồng Nai đẩy mạnh phát triển kinh tế gắn với củng cố, tăng
cường quốc phòng, an ninh / Cao Tiến Dũng14 // https://baoquankhu7.vn. 2023. Ngày 24
tháng 01.
(QK7 Online) - Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố, tăng cường
quốc phòng, an ninh là chủ trương chiến lược của Đảng và Nhà nước ta trong thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng nội dung được
Tỉnh ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Nai thường xuyên quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, với nhiều giải pháp đồng bộ, hiệu quả, đảm bảo cho tỉnh
phát triển nhanh, bền vững.
Tỉnh Đồng Nai nằm trong khu tam giác kinh tế trọng điểm phía Nam, cửa ngõ phía
Đông của Thành phố Hồ Chí Minh, có nhiều tuyến giao thông huyết mạnh cả đường bộ,
đường sông, đường không, nên có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa,
hội, quốc phòng và an ninh của khu vực Đông Nam Bộ cả nước. Những năm qua,
Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân và lực lượng vũ trang tỉnh đoàn kết, nỗ lực khắc phục khó
khăn; quyết liệt thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, góp phần ổn định tình
hình, khôi phục sản xuất, đưa địa phương trở lại trạng thái bình thường mới; hoàn thành
thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Để được thành quả đó, Tỉnh ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân tỉnh chủ động
đề ra nhiều chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện các mặt công tác; trong đó, coi
trọng đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh,
xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh
Nhân dân, xây dng khu vực phòng thủ vững chắc.
Đồng chí Cao Tiến
Dũng, Phó Bí thư Tỉnh ủy,
Chủ tịch Ủy ban Nhân
dân tỉnh Đồng Nai (thứ 3
bên trái) giới thiệu với
Thiếu tướng Nguyễn
Trường Thắng, Ủy viên
Trung ương Đảng, Tư
lệnh Quân khu 7 về kết
quả tăng gia sản xuất của
LLVT tỉnh Đồng Nai.
Ảnh: CTV
14 Cao Tiến Dũng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai
89

10.4 Page 94

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Trước hết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tạo cơ sở,
nền tảng xây dựng tiềm lực, thế trận quốc phòng, an ninh. Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh cụ
thể hóa Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 28 của Ban Chấp hành
Trung ương (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới thành chủ trương,
kế hoạch, dự án, đề án phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng,
an ninh. Tỉnh chỉ đạo phát huy vai trò của các sở, ban ngành, quan quân sự, công an,...
làm tham mưu, phối hợp xây dựng các quy hoạch, đề án phát triển kinh tế - xã hội phù hợp
với đặc thù địa phương; trong tất cả các đề án, quy hoạch đều phải được thẩm định về quốc
phòng - an ninh, theo thế trận phòng thủ chung của địa bàn Quân khu và cả nước.
Đi đôi với đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh Nhân
dân; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh vững chắc. Quán triệt sâu sắc chủ trương, quan điểm
chính sách của Đảng và Nhà nước về quốc phòng, quân sự địa phương, Đồng Nai thc hin
tt ni dung quy chế phi hp vi Đảng ủy Quân khu 7; lãnh đạo, chỉ đạo triển khai, tổ chức
hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vquốc phòng, quân sự địa phương đã đề ra. Chú trọng xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh Nhân
dân; tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng khu vực phòng thủ ngày càng vững chắc.
Trước mắt, tỉnh quan tâm đầu ngân sách địa phương cho công tác quốc phòng, ưu tiên
xây dựng các công trình quân sự và mua sắm trang bị theo Đề án xây dng công trình
chiến đấu khu vực phòng thủ tnh Đồng Nai giai đoạn 2021 - 2030” và thc hin chủ trương
ca Quân khu 7 về đơn v, địa phương tuyến sau htrợ đơn v, địa phương tuyến trước...
Cùng với đó, tỉnh chỉ đạo cơ quan quân sự, công an phối hợp đổi mới công tác giáo dục
quốc phòng và an ninh cho các đối tượng, tp trung hoàn thành cho đối tượng 3. Thực hiện
tốt công tác tuyển sinh quân sự; nâng cao chất lượng công tác tuyển quân, cử tuyển đảng
viên nhập ngũ; phát huy hiu qumô hình dân quân nm hgia đình nơi cư trú; quan tâm
xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, nhất lực lượng dân quân thường trực
khu công nghiệp, khu công nghệ cao, bảo đảm luôn vững mạnh về chính trị, chất lượng
tổng hợp cao, hoạt động hiệu quả trong công tác phối hợp bảo vệ an ninh chính trị ở cơ sở.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang tnh vững mạnh toàn diện, tập
trung đột phá vào xây dựng vững mạnh về chính trị, không ngừng nâng cao chất lượng tổng
hợp, sức mạnh chiến đấu. Tỉnh yêu cầu cơ quan quân sự, công an... tiếp tục đổi mới công
tác giáo dục chính trị, thông tin, định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, nhất trước
những vấn đề phức tạp, nhạy cảm, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao. Triển khai hiệu quả
Chuyên đề “Phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa nhân”. Đổi
mới công tác thi đua, khen thưởng bảo đảm thiết thực, hiệu quả gắn với phong trào thi đua
“3 nhất”, “5 chủ động trong công tác tư tưởng”. Đẩy mạnh giáo dc, tuyên truyn bo v
nn tng tư tưởng ca Đảng, đấu tranh, phản bác những quan điểm, tư tưởng xấu độc của
các thế lực phản động trên không gian mạng, góp phần phòng, chống hiệu quả chiến lược
“diễn biến hòa bình”, ngăn chặn các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính
90

10.5 Page 95

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
trị hóaQuân đội, bảo đảm cho lực lượng vũ trang tnh luôn có bản lĩnh chính trị kiên định
vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân.
Tỉnh chỉ đạo các đơn vị, địa phương triển khai thực hiện hiệu quả các khâu đột phá
về nâng cao chất lượng công tác quân sự, quốc phòng. Tăng cường công tác quản lý Nhà
nước về quốc phòng, gắn phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng và an ninh,
quốc phòng và an ninh với kinh tế - xã hội, nhất địa bàn trng điểm.
Đổi mi, nâng cao cht lượng hun luyn, coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu,
lấy thực hành là chính, sử dụng thành thạo vũ khí trang bị, khí tài được biên chế, tăng cường
huấn luyện đêm, huấn luyện cơ động và rèn luyện thể lực. Bảo đảm tốt hệ thống trường bắn,
thao trường, vật chất huấn luyện. Tích cc chun bcác mt bo đảm, tổ chức cht chcác
cuộc diễn tập, nhất là tham gia diễn tập phòng thủ Quân khu, diễn tập khu vực phòng thủ
cấp huyn, cp xã theo kế hoch, sát tình hình địa phương, nhim vca đơn v; tham gia
hội thi, hội thao các cấp đạt kết quả cao, bảo đảm an toàn tuyệt đối.
Tỉnh còn chỉ đạo và quan tâm tạo điều kiện đẩy mnh phong trào hc tp ngoi ng,
tiếng dân tc trong lực lượng vũ trang tnh, đáp ng yêu cu, nhim vtrong tình hình mi.
Đồng thời, tập trung triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp tạo chuyển biến vững chắc
về xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật, bảo đảm an toàn; nâng cao cht lượng, hiu qu
chương trình 5Svn dng phù hp vào các mt công tác ca tng quan, đơn v; xây
dựng ý thức tự giác chấp hành, tự rèn của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang tnh;
phối hợp chặt chẽ giữa đơn vị, địa phương, gia đình trong giáo dục, quản bộ đội; thường
xuyên kiểm tra, kịp thời chấn chỉnh, xử lý các sai phạm. Thực hiện tốt các quy định về trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, lấy kết quả xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật,
bảo đảm an toàn ca đơn vmột trong những tiêu chí quan trọng để xem xét, đánh giá, đề
bạt, bổ nhiệm cán bộ và thi đua, khen thưởng, xếp loại chất lượng tập thể, cá nhân hằng
năm. Đẩy mạnh xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”; ứng
dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số vào cải cách hành chính quân sự, bảo đảm thực
hiện nhiệm vụ nhanh, gọn, khoa học, thiết thực, hiệu quả.
Với các giải pháp đồng bộ, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo gắn phát triển kinh tế - xã
hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, sẽ góp phần xây dựng tỉnh Đồng Nai tiếp
tục phát triển bền vững, xứng đáng với tiềm năng, thế mạnh, vị thế của tỉnh trong vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam và cả nước.
29. Kinh tế Việt Nam và tỉnh Đồng Nai thời kỳ đổi mới / Phòng ANKT //
https://congan.dongnai.gov.vn. 2023. Ngày 5 tháng 9.
Chiến thắng trong các cuộc kháng chiến cứu quốc, tiếp đến là hàn gắn vết thương
chiến tranh và tìm cơ chế, mô hình phát triển, đến nay Việt Nam đã đạt được nhiều dấu ấn
quan trọng trên hầu hết các lĩnh vực. Từ một quốc gia thuần nông, đại đa số người dân sống
ở nông thôn, trình độ phát triển thấp, Việt Nam đã chuyển mình trở thành một quốc gia có
mức thu nhập trung bình trên thế giới. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ
mô được duy trì, giúp cho nước ta chủ động hơn trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
91

10.6 Page 96

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Tại Đại hội VI của Đảng (tháng
12/1986), với tinh thần "nhìn thẳng vào
sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật", Đảng ta đã đề ra đường lối đổi
mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước
ngoặt quan trọng trên con đường quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đường lối đổi mới đó là kết quả của sự
khảo nghiệm thực tiễn và đổi mới tư
duy lý luận; là bước phát triển có ý
nghĩa cách mạng trong nhận thức và
hành động của Đảng với những chủ
trương, đường lối mang tính đột phá. Những chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của
Đảng và Nhà nước nhanh chóng đi vào cuộc sống, mang lại kết quả tích cực. Đất nước ta đã
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài, mặc dù một số mặt còn
chưa vững chắc. Như vậy, từ năm 1986 đến nay, quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
dưới sự lãnh đạo của Đảng diễn ra từng bước theo hướng vừa làm thử nghiệm, sửa đổi, bổ
sung, từng bộ phận của cơ chế cũ bị xóa bỏ, từng bước hình thành cơ chế mới - cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Báo cáo Chính trị tại Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thống nhất và nêu
rõ: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước
ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập
quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý
của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu” dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng
được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài ngày càng được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.
Kinh tế liên tục tăng trưởng đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào
nhóm nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp. Quy mô nền kinh tế ngày càng
mở rộng. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế là đúng hướng và phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những số liệu thống kê của Tổng cục
Thống kê là minh chứng cụ thể nền kinh tế Việt Nam phát triển: Giai đoạn 1986-2000, tổng
sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm tăng 6,51%; GDP năm 2019 gấp 12,5 lần năm
2001; năm 2022, kinh tế, chính trị thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, tác động, ảnh
hưởng trực tiếp đến Việt Nam, nhưng GDP Việt Nam trong năm 2022 đạt 409 tỷ USD,
đứng thứ 5 trong khu vực Đông Nam Á (Việt Nam xếp sau Indonesia (1,29 nghìn tỷ USD),
Thái Lan (534,76 tỷ USD), Malaysia (434,06 tỷ USD), Singapore (423,63 tỷ USD) và xếp
92

10.7 Page 97

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
ngay trên Philippines (401,66 tỷ USD). Trên thế giới, Việt Nam là quốc gia đứng thứ 37 về
quy mô kinh tế, Indonesia đứng thứ 17, Thái Lan đứng thứ 26, Malaysia đứng thứ 35,
Singapore đứng thứ 36.
Cờ đỏ sao vàng tung bay ở Geneva, Thụy Sĩ (Chiều ngày 22/09/2015,
Đ/c Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh thăm và làm việc với cán bộ Phái đoàn Việt Nam
tại Đại Hội đồng WTO trước ngày khánh thành trụ sở mới).
Những dấu ấn trong sự phát triển kinh tế – xã hội của nước ta kể từ năm 1945, đặc biệt
từ năm 1986 đến nay, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, chính sách, đường lối nhất
quán của Nhà nước về phát triển kinh tế – xã hội. Vị thế của Việt Nam thay đổi đáng kể trên
thế giới và trong khu vực ASEAN. Việt Nam đã vượt trên các quốc gia trong khu vực Đông
Nam Á về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, xếp hạng thứ 25 thế giới về hấp dẫn vốn
FDI. Ở khía cạnh ngoại giao kinh tế, đến nay đã có trên 70 nước công nhận Việt Nam là nền
kinh tế thị trường. Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã là thành viên chính thức của nhiều Tổ
chức kinh tế quốc tế như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
châu Á Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn
hợp tác kinh tế Á – Âu (ASEM); tham gia tích cực vào việc đàm phán cũng như ký kết, phê
chuẩn các Hiệp định thương mại tự do (FTA) với 16 FTA song phương và đa phương. Điều
này không chỉ góp phần thúc đẩy thương mại và đầu tư cho nền kinh tế Việt Nam, mà còn
thể hiện sự chủ động của Việt Nam trong việc hình thành hệ thống thương mại quốc tế. Tính
đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 192 trong 200 quốc gia trên toàn thế
giới; thiết lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với 30 đối tác chiến lược và toàn diện, tạo
nền tảng vững chắc để Việt Nam cùng các nước nâng tầm hợp tác vì lợi ích của mỗi nước
và vì hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Hơn 48 năm kể từ Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, gần 37 năm thực
hiện công cuộc đổi mới, cùng nhịp phát triển chung của cả nước, Đồng Nai đã đạt được
những thành tựu vượt bậc trong phát triển kinh tế - xã hội
Nền công nghiệp phát triển nổi bật với hàng loạt khu công nghiệp (KCN), nhà máy
mọc lên, cùng với đó, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng là cơ sở để Đồng Nai có những
93

10.8 Page 98

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
bước tiến mạnh mẽ trong phát triển kinh tế-xã hội trong hiện tại và tương lai.
Có thể nói Đồng Nai là “Cái nôi” phát triển khu công nghiệp”, một trong những lĩnh vực ưu
tiên của Đồng Nai là phát triển công nghiệp và xây dựng các KCN. Chính các KCN đã trở
thành địa điểm thu hút đầu tư, tạo động lực phát triển, giúp Đồng Nai trở thành vùng kinh tế
phát triển năng động hàng đầu của cả nước. Từ chỗ chỉ có một KCN duy nhất trước ngày
giải phóng, đến nay Đồng Nai đã quy hoạch 35 KCN với tổng diện tích trên 12 ngàn ha,
trong đó 31 khu công nghệp được đầu tư hạ tầng hoàn thiện đi vào hoạt động. Các KCN
Đồng Nai đã thu hút được trên 1.500 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với
tổng vốn đầu tư gần 33 tỷ USD đến từ 45 quốc gia, vùng lãnh thổ và lấp đầy trên 85% diện
tích đất cho thuê. Các KCN đã tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trên địa bàn đạt
12,5% trong giai đoạn 2006-2015 và từ 8-9% từ năm 2016 đến nay.
Tòa nhà Sonadezi Biên Hòa ngày nay
Đến nay, toàn tỉnh đã có trên 41 ngàn doanh nghiệp được thành lập và hoạt động với
tổng vốn đăng ký trên 300 ngàn tỷ đồng. Bên cạnh đó, khi các dự án hạ tầng lớn đưa vào
khai thác, sử dụng như Cảng hàng không quốc tế Long Thành, các tuyến đường cao tốc
trọng điểm quốc gia và khu vực qua địa bàn tỉnh sẽ mở ra nhiều cơ hội, nhiều quỹ đất mới
để Đồng Nai tiếp tục phát triển các KCN, khu đô thị hiện đại, thu hút thêm các nhà đầu tư
trong và ngoài nước.
Kinh tế Đồng Nai những năm qua luôn tăng trưởng ổn định, chỉ riêng giai đoạn 2016-
2020, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) bình quân mỗi năm tăng 8,12%, năm sau cao
hơn năm trước (năm 2021 – 2022, do tác động, ảnh hưởng bởi dịch covid-19 và chiến tranh
Nga – Ucraina, chỉ số (GRDP) bình quân thấp hơn). Quy mô GRDP tính theo giá hiện hành
đến năm 2020 đạt gần 400 ngàn tỷ đồng (tương đương 17,2 tỷ USD), gấp 1,7 lần so với năm
2015. Mô hình tăng trưởng kinh tế có bước chuyển đổi theo xu hướng tăng sự đóng góp của
khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Ngoài ra, cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch tích cực, tăng tỉ trọng GRDP ngành Công
nghiệp - xây dựng, ngành Dịch vụ và giảm ngành Nông nghiệp, đúng định hướng nghị
quyết. GRDP bình quân đầu người đến năm 2020 đạt 124 triệu đồng/người/năm, tương
94

10.9 Page 99

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
đương khoảng 5.300 USD, tăng hơn 1,7 lần so với năm 2015, gấp 1,7 lần so với cả nước.
Cơ cấu lao động dịch chuyển mạnh mẽ từ khu vực nông nghiệp sang các khu vực công
nghiệp và dịch vụ.
Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện, cạnh tranh minh bạch, bình đẳng hơn,
tạo điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp phát triển. Kinh tế
tư nhân phát triển mạnh mẽ và đa dạng, đóng góp ngày càng quan trọng vào phát triển kinh
tế - xã hội, thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, thu nhập cho người lao động. Kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài phát triển mạnh với nhiều dự án được cấp mới và bổ sung tăng vốn thuộc
c tập đoàn lớn, sử dụng công nghệ hiện đại, thuộc những ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên
phát triển của tỉnh, góp phần đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý và năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế. Trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu, Đồng Nai đã vươn lên trở thành một
trong những tỉnh đứng đầu cả nước, đặc biệt, những năm gần đây, xuất siêu của Đồng Nai
luôn là một trong những tỉnh đứng đầu cả nước, với giá trị xuất siêu từ 2-3 tỷ USD.
30. 50 năm thống nhất : Vùng đất anh hùng góp phần làm nên Chiến thắng Xuân Lộc //
https://baocaovien.vn. 2025. Ngày 27 tháng 3.
Với những thành tích xuất sắc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xã Xuân Thọ ở
Xuân Lộc, Đồng Nai được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Đơn vị anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân..
Ngày 21/4/1975, Chiến dịch tiến công Xuân Lộc (Đồng Nai) kết thúc thắng lợi, từ đây khu
vực phòng thủ trọng yếu, “cánh cửa thép” phía Đông Sài Gòn của Mỹ-Ngụy bị đập tan.
Để có Chiến thắng Xuân Lộc, trước đó, quân và dân ta đã triệt để thực hiện chiến lược ấp bám
ấp, xã bám xã. Việc giành và giữ từng tấc đất giữa ta và địch ở những địa bàn chiến lược khiến cuộc
chiến tại vùng ven Xuân Lộc trở nên khốc liệt, đặc biệt là tại xã Bảo Chánh, nay là xã Xuân Thọ.
Trở thành tâm điểm trong cuộc chiến, quân và dân Bảo Chánh đã phát huy phẩm chất anh
hùng, kiên cường chiến đấu. Ngày 11/12/1974, Bảo Chánh trở thành xã đầu tiên của quân khu cũng
như tỉnh Bà Rịa-Long Khánh được giải phóng.
Với những thành tích xuất sắc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xã Xuân Thọ là
địa phương duy nhất ở huyện Xuân Lộc được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Đơn vị anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Sau giải phóng, Xuân Thọ tiếp tục giành được nhiều thành tích trong phát triển kinh tế.
Vùng đất anh hùng
Ngồi trò chuyện với chúng tôi, ông Hồ Quang Bửu (84 tuổi, xã Xuân Thọ), nguyên là Bí thư
Chi bộ xã Bảo Chánh từ năm 1974-1975 chia sẻ, do tuổi già nên đã quên đi nhiều thứ, nhưng riêng
những năm tháng chiến đấu ở Bảo Chánh vẫn in sâu trong tâm khảm.
Ông Hồ Quang Bửu kể xã Bảo Chánh ngày đó có dân số khoảng 1.500 người, Chi bộ xã ban
đầu có gần 10 đảng viên; toàn xã có đội du kích hơn 10 người và vận động được khoảng 40 quần
chúng trong xã làm liên lạc, nắm tin tức cho ta. Đây là lực lượng bám xã, phối hợp với quân đội
chính quy tiến hành các trận đánh, vây đồn bốt, trực tiếp giữ từng tấc đất.
“Khi quân giải phóng chiếm được 1 ấp là đảng viên và du kích sẽ đến bám trụ địa bàn, tuyên
truyền cho người dân ở đó đi theo cách mạng. Địch mất địa bàn thì bắn phá, tìm mọi cách để chiếm
95

10.10 Page 100

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
lại nhưng chúng tôi kiên quyết bám trụ. Chúng tôi xác định có ấp giải phóng mới có vùng giải
phóng, có vùng giải phóng mới có miền Nam hoàn toàn giải phóng”, ông Hồ Quang Bửu chia sẻ.
Ông Hồ Quang Bửu, nguyên Bí thư Chi bộ xã Bảo Chánh kể về những
ngày tháng chiến đấu giải phóng Bảo Chánh. (Ảnh: Công Phong/TTXVN)
Theo Lịch sử Đảng bộ xã Xuân Thọ, trong những năm 1973-1974, địch coi Bảo Chánh là tiền
đồn bảo vệ thị xã Long Khánh, Quốc lộ 1A nên tập trung ở đây nhiều quân lực, xây dựng hệ thống
đồn bốt kiên cố, lập bộ máy hành chính lớn với đồn, ấp, các tổ phòng vệ. Địch quyết tâm giữ đồn
Bảo Chánh để làm bàn đạp đánh sâu vào vùng căn cứ của ta, duy trì hoạt động thám báo của chúng.
Do Bảo Chánh có vị trí chiến lược quan trọng nên bước vào Chiến dịch mùa khô năm 1974-
1975, Huyện ủy Xuân Lộc chọn Bảo Chánh làm xã trọng điểm để đánh địch, giải phóng bằng ba
mũi giáp công (binh vận, chính trị, quân sự).
Đầu tháng 12/1974, Ban Chỉ huy trận bức hàng đồn Bảo Chánh được thành lập, ông Hồ
Quang Bửu làm Phó Ban. Sau khi thống nhất phương án, chuẩn bị đầy đủ lực lượng, vũ khí, các
mũi binh vận, chính trị, quân sự đồng loạt xuất quân, áp sát vành đai xã Bảo Chánh, bức địch dồn
toàn bộ lực lượng về cố thủ ở đồn Bảo Chánh.
Sau đó, các lực lượng giải phóng tăng cường bao vây, pháo kích, tuyên truyền, vận động, đến
sáng 11/12/1974 toàn bộ chỉ huy, binh lính đồn Bảo Chánh ra đầu hàng.
Việc giải phóng Bảo Chánh là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử to lớn, tạo tiền đề cho quân dân ta
tiến lên tấn công địch, làm chủ các địa bàn dọc Quốc lộ 1A, tạo vùng căn cứ rộng lớn, chiến lược để
làm bàn đạp tấn công, giải phóng hoàn toàn Xuân Lộc.
Vươn lên trong phát triển kinh tế
Ông Nguyễn Tiến Biểu (xã Xuân Hiệp, huyện Xuân Lộc), trinh sát đặc công thuộc Đại đội 21,
Sư đoàn 6 chia sẻ, năm 1974, ông từ miền Bắc vào Xuân Thọ chiến đấu. Ngày đó, Xuân Thọ bạt
ngàn đồi núi, đất đai cằn cỗi, hệ thống cơ sở hạ tầng là số không, nhưng nay Xuân Thọ đã có bước
phát triển thần kỳ, đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.
Theo Ủy ban Nhân dân xã Xuân Thọ, sau khi miền Nam được giải phóng, rất đông người dân
từ các tỉnh miền Bắc, miền Trung vào Xuân Thọ lập nghiệp. Ban đầu việc sản xuất nông nghiệp gặp
rất nhiều khó khăn, nguyên nhân do người dân trồng các loại cây không phù hợp với đất đai, không
nắm được kỹ thuật canh tác.
96

11 Pages 101-110

▲back to top

11.1 Page 101

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Sau đó, các cấp chính quyền đã không ngừng khảo sát, nghiên cứu về tính chất đất đai, thổ
nhưỡng trên địa bàn, qua đó tìm ra loại cây trồng thích hợp, hướng dẫn người dân áp dụng khoa học
kỹ thuật vào nông nghiệp, lập ra các nông trường sản xuất tập trung.
Ông Nguyễn Tiến Biểu, trinh sát đặc công kể về quá trình chiến đấu,
giải phóng Bảo Chánh. (Ảnh: Công Phong/TTXVN)
Ông Hồ Đăng Văn, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Xuân Thọ cho biết những
năm qua, Xuân Thọ đã hình thành được vùng trồng cây hồ tiêu lớn nhất tỉnh Đồng Nai với diện tích
hơn 600ha. Năm 2024, Hợp tác xã hồ tiêu Xuân Thọ thu mua và xuất bán hơn 300 tấn hạt tiêu,
doanh thu đạt hơn 42 tỷ đồng.
Hiện người dân trong xã đang xây dựng mã vùng trồng cho cây hồ tiêu, đồng thời áp dụng
công nghệ số để thực hiện truy xuất nguồn gốc, được chứng nhận 3 sao OCOP cấp tỉnh. Ngoài ra,
trên địa bàn xã còn có các hợp tác xã chuyên về ngô (bắp), hạt điều và 40 câu lạc bộ năng suất cao
trên các loại cây trồng, vật nuôi.
Đặc biệt, kinh tế tư nhân của xã phát triển đa dạng, toàn xã có gần 1.200 hộ kinh doanh cá thể
và hàng chục doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực. Đến nay, kinh tế xã Xuân
Thọ có bước phát triển vượt bậc, năm 2024 thu nhập bình quân đầu người của xã đạt hơn 96 triệu
đồng, tăng hơn 27 triệu đồng so với năm 2020; toàn xã không còn hộ nghèo, hộ cận nghèo theo
chuẩn nghèo đa chiều của Trung ương.
Hiện Xuân Thọ đang tập trung phát triển nông nghiệp theo hướng tăng cường ứng dụng công
nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn và sản xuất hàng hóa bền vững; phát triển thương mại, dịch vụ; tiếp tục
xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, trồng hoa, cây xanh trên các tuyến đường, xây dựng các mô
hình bảo vệ môi trường tại ấp, gia đình.
Xuân Lộc đi đầu trong xây dựng nông thôn mới
Theo ông Lê Kim Bằng, Bí thư Huyện ủy Xuân Lộc, ngày 21/4/1975 quân và dân ta giải
phóng thị xã Long Khánh. Chiến thắng này đập tan “bức tường thép” phía Đông Sài Gòn của Mỹ-
Ngụy, làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ còn lại của địch quanh Sài Gòn, mở ra một khu
vực thuận lợi để các binh đoàn chủ lực tiến vào giải phóng Sài Gòn, thống nhất Tổ quốc.
Để giải phóng thị xã Long Khánh, trước đó quân và dân ta đã có nhiều trận đánh với bao mất
mát, hi sinh. Trong đó, Chiến thắng Bảo Chánh có ý nghĩa lịch sử to lớn, đây là lần đầu tiên ta sử
97

11.2 Page 102

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
dụng 3 mũi giáp công bức hàng đồn địch, mở đầu cho phong trào địa phương tự lực tự cường giải
phóng xã, ấp.
Ông Lê Kim Bằng chia sẻ sau giải phóng, Xuân Lộc là huyện nghèo nàn, lạc hậu, hệ thống cơ
sở hạ tầng gần như là số không. Tuy nhiên, với quyết tâm, nỗ lực, đến nay Xuân Lộc là 1 trong 3
huyện đầu tiên của cả nước hoàn thành xây dựng nông thôn mới nâng cao và huyện đầu tiên ở nước
ta hoàn thành các tiêu chí huyện nông thôn mới kiểu mẫu.
Những năm qua, huyện đã hình thành được nhiều tiểu vùng sản xuất tập trung với tổng diện
tích gần 26.000ha. Huyện định hướng phát triển được 17 vùng trồng trọt và chăn nuôi ứng dụng
công nghệ cao trên các loại cây trồng đặc sản với giá trị kinh tế cao như: sầu riêng, chôm chôm, hồ
tiêu. Ngoài ra, 105/105 trang trại chăn nuôi trên địa bàn đều áp dụng tốt công nghệ chuồng lạnh, an
toàn sinh học, khép kín.
Huyện Xuân Lộc được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang
và Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới. (Ảnh: Công Phong/TTXVN)
Hiện giá trị thu nhập đối với các cây trồng chủ lực trên địa bàn Xuân Lộc đạt hơn 348 triệu
đồng/ha, tăng hơn 78 triệu đồng/ha so với năm 2018; thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 95 triệu
đồng/người, tăng trên 40 triệu đồng/người so với năm 2018.
Theo ông Lê Kim Bằng, huyện Xuân Lộc đã 2 lần được phong tặng danh hiệu anh hùng
(“Anh hùng Lực lượng Vũ trang” và “Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới”). Đây là sự ghi
nhận của Đảng, Nhà nước đối với những hy sinh, truyền thống cách mạng, tinh thần lao động cần
cù, sáng tạo của chính quyền và nhân dân Xuân Lộc.
Tới đây, huyện sẽ tiếp tục phát huy những phẩm chất tốt, xây dựng chính quyền cơ sở ngày
càng giàu đẹp hơn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
31. Ngọc Liên. Hành trình 50 năm đổi thay và vươn mình : Kỷ niệm 50 năm Ngày
Giải phóng Định Quán (17-3) / Ngọc Liên // https://baodongnai.com.vn. 2025. Ngày 15
tháng 3.
Xuất phát điểm là một huyện miền núi, thuần nông và nghèo của Đồng Nai, nhưng
sau 50 năm giải phóng, huyện Định Quán ngày nay đã có diện mạo mới, vị thế mới, tự tin
bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
98

11.3 Page 103

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Tượng đài Chiến thắng La Ngà, địa chỉ đỏ của người dân Định Quán. Ảnh: N.Liên
Đến nay, Định Quán đã hoàn thành xây dựng huyện nông thôn mới nâng cao. Nhiều
chỉ tiêu kinh tế, xã hội, an sinh xã hội đạt ở mức cao. Định Quán đang trở thành điểm sáng
về phát triển một số loại hình kinh tế như: vùng chuyên canh một số nông sản (xoài, sầu
riêng, cây có múi…); mô hình kinh tế du lịch với các sản phẩm du lịch sinh thái vườn, hồ,
hang động…; các khu, cụm công nghiệp kết nối với hạ tầng giao thông nội tỉnh cũng như
cấp vùng…
Từ mốc son lịch sử
Cách đây 50 năm, ngày 17-3-1975, chớp thời cơ lực lượng cách mạng đã giành chiến
thắng tại chiến trường Tây Nguyên (ngày 10-3-1975), quân và dân Định Quán đã phối hợp
cùng bộ đội chủ lực Quân đoàn 4 nổ những phát súng tiêu diệt Chi khu Định Quán của địch.
Bằng ý chí và tinh thần chiến đấu của lực lượng cách mạng, chỉ trong thời gian ngắn, huyện
Định Quán được hoàn toàn giải phóng, lực lượng cách mạng làm chủ một phần quốc lộ 20 -
con đường huyết mạch kết nối vùng Nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
Sự kiện giải phóng Định Quán có ý nghĩa quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho các
đơn vị chủ lực của quân ta bao vây, tiến công giải phóng Xuân Lộc, tuyến phòng thủ cuối
cùng của quân đội Việt Nam Cộng hòa ở phía Đông Bắc Sài Gòn. Từ đây, quân đội ta tiến
vào Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc 21 năm kháng chiến
chống Mỹ của dân tộc.
Thượng tá Nguyễn Trọng
Tiết, nguyên Phó chỉ huy trưởng
Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, kể thời
điểm diễn ra sự kiện lịch sử giải
phóng Định Quán, ông đang làm
nhiệm vụ trợ lý tác chiến của Tỉnh
Thời gian gần đây, bên cạnh sự phát triển ngành
nông nghiệp, công nghiệp…, Định Quán còn khai thác
các tiềm năng phát triển dịch vụ, du lịch, một trong
những ngành kinh tế mang lại giá trị kinh tế cao cho
người dân.
đội Tân Phú, chuyên tổng hợp tin tức và nắm tình hình chiến sự. Tuy không trực tiếp cầm
súng tham gia trận đánh nhưng mọi diễn biết, thông tin về cuộc đấu tranh giải phóng Định
99

11.4 Page 104

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Quán đều được ông nắm bắt để báo cáo cấp lãnh đạo cao hơn. Thượng tá Nguyễn Trọng
Tiết chia sẻ thêm, sau giải phóng, ông chọn ở lại Định Quán để lập nghiệp. Do đó, sau 50
năm sinh sống tại Định Quán, ông Tiết vui mừng vì sự thay đổi của vùng đất mới. Hệ thống
hạ tầng giao thông, cơ sở giáo dục, y tế phát triển nhanh, đáp ứng nhu cầu người dân. Đặc
biệt là Chương trình Xây dựng nông thôn mới tại Đồng Nai đã đóng góp vào sự thay đổi
đáng kể diện mạo vùng nông thôn, chất lượng đời sống người dân được nâng cao, phát triển
toàn diện về mọi mặt.
Khách du lịch tham gia tour
khám phá cảnh quan thiên
nhiên đá độc đáo tại khu vực
quần thể Đá Ba Chồng,
huyện Định Quán do Công
ty TNHH Du lịch Trị An
dventure tổ chức. Đây là
điểm đến thu hút khách du
lịch thời gian qua. Ảnh:
Thủy Mộc
Ông Nguyễn Trọng Tiết kỳ vọng, thế hệ trẻ Việt Nam, trong đó có thế hệ trẻ Định
Quán hôm nay, cần tiếp bước truyền thống đoàn kết, yêu nước, nâng cao ý thức, trách
nhiệm, kiên định lập trường, tư tưởng để bảo vệ và xây dựng quê hương đất nước trong thời
kỳ mới.
Tự tin bước vào kỷ nguyên vươn mình
Sau giải phóng, Định Quán là huyện miền núi, nghèo của huyện, đời sống người dân
khó khăn. Tuy nhiên, sau 50 năm phấn đấu, phát huy tinh thần đoàn kết, vượt qua khó khăn,
tập trung phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh, huyện đã đạt
được nhiều thành tựu, tự tin bước vào kỷ nguyên mới.
Năm 2024, Định Quán đạt và vượt 44/44 chỉ tiêu về kinh tế - xã hội, trong đó, 20 chỉ
tiêu đạt, 24 chỉ tiêu vượt. Một số chỉ tiêu quan trọng vượt như: thu nhập bình quân đầu
người năm 2024 đạt hơn 86 triệu đồng (chỉ tiêu 85 triệu đồng); giá trị sản xuất nông - lâm -
ngư nghiệp tăng trên 4,7% (chỉ tiêu tăng 4%); giá trị sản xuất công nghiệp tăng 9,12% (chỉ
tiêu tăng từ 8-9%). Thu ngân sách nhà nước tăng 22% so với kế hoạch. Đặc biệt, huyện
Định Quán vừa được Chính phủ công nhận đạt chuẩn huyện nông thôn mới nâng cao.
Để có được thành quả trên, Định Quán đã phát huy tốt vai trò của các ban, ngành, đoàn
thể, các phong trào thi đua sản xuất, bảo vệ an ninh Tổ quốc. Các tổ chức Đoàn thể nhân
dân từ nông dân đến phụ nữ, thanh niên, cựu chiến binh… đã phát huy tốt vai trò của mình
trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển địa phương.
100

11.5 Page 105

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Hạ tầng giao thông tại Định Quán
Chị Bùi Thị Minh Ngọc, Bí thư Huyện đoàn Định Quán, cho hay nhiều năm qua,
Huyện đoàn luôn đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thống cách mạng cho thanh thiếu nhi,
đặc biệt là kỷ niệm Chiến thắng La Ngà (1-3) và Ngày Giải phóng Định Quán (17-3). Thông
qua các hoạt động như: thi tìm hiểu về Chiến thắng La Ngà và giải phóng Định Quán, sinh
hoạt chi đoàn, chi hội, sinh hoạt dưới cờ; tọa đàm; tổ chức các chương trình…
Bên cạnh đó, Huyện đoàn luôn tìm tòi đổi mới cách làm và phát huy truyền thống cách
mạng cho thanh thiếu nhi, gắn với ứng dụng công nghệ thông tin. Huyện đoàn tổ chức các
phần thi trên ứng dụng nền tảng số như: thi thiết kế tranh AI, infographic,
Hoctaplyluantinhdongnai, tọa đàm trực tuyến, thi tìm hiểu về các di tích lịch sử...
Trong quá trình hoạt động, Huyện đoàn Định Quán có một số tấm gương trẻ tiêu biểu
như: chị Nguyễn Thị Cẩm Tiên, Bí thư Đoàn xã Suối Nho, được tỉnh tuyên dương thanh
niên tiêu biểu tỉnh Đồng Nai, thanh niên làm theo lời Bác, đảng viên trẻ tiêu biểu; anh Chìu
Văn Thành, Bí thư Chi đoàn ấp 3, xã Thanh Sơn, là đảng viên trẻ tiêu biểu trong công tác
tuyên truyền và phát huy truyền thống cách mạng hiện nay.
Phó bí thư thường trực huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện Định Quán Trần Hữu Hạnh
chia sẻ, Huyện ủy luôn quan tâm, chỉ đạo kịp thời đến các cơ quan, địa phương trên địa bàn
nghiêm túc thực hiện những nhiệm vụ đã đề ra. Từ đó, nhiều kết quả đạt và vượt chỉ tiêu
Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện. Các kết quả đạt được tạo nền tảng vững
chắc, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XIII, nhiệm
kỳ 2020-2025.
32. 8 thành tựu của Đồng Nai // https://tapchicongthuong.vn. 2005. Ngày 06
tháng 7.
Từ năm 1990, Đồng Nai đã thành lập Công ty Phát triển KCN Biên Hòa (Sonadezi) và
KCN Biên Hoà 2 trở thành KCN đầu tiên của cả nước được ra đời trước khi Chính phủ ban
hành quy chế KCN. Thành công của KCN Biên Hòa 2 đã trở thành động lực mạnh mẽ thúc
đẩy qúa trình xây dựng và phát triển các KCN Đồng Nai.
101

11.6 Page 106

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Đến nay, Đồng Nai đã có 16 KCN được Chính phủ phê duyệt (chiếm 15% số lượng
các KCN được phê duyệt trong cả nước là 109), với tổng diện tích 4.805 ha (chiếm 24% so
với 20.385 ha). Trong đó có 6 KCN đã lấp đầy trên 80% diện tích (chiếm 24% so với 25
KCN đã đầy trên 80% của cả nước); tỷ lệ lấp đầy bình quân tại các KCN đạt 57,72% (bình
quân cả nước là 42%). Tính đến tháng 6/2004, các KCN Đồng Nai đã thu hút được 596 dự
án đầu tư (chiếm 24% so với 2.864 dự án đầu tư vào các KCN cả nước), với tổng vốn 6.327
triệu USD (chiếm 39% so với 16.070 triệu USD); tạo việc làm cho khoảng 200.000 lao
động (chiếm 34% trong số 581.000 lao động trong các KCN cả nước).
Dự kiến đến năm 2010, Đồng Nai sẽ phát triển 32 KCN tập trung, với tổng diện tích
khoảng 11.000 ha. Trong đó: 16 KCN đã được Chính phủ phê duyệt (4.805 ha); 7 KCN
đang xin thành lập (2.050 ha); và 9 KCN mới đăng ký bổ sung (3.070 ha).
Tại Hội nghị “Tổng kết Qúa trình xây dựng, phát triển các KCN và thu hút đầu tư tại
Đồng Nai (1991-2004)”, tổ chức ngày 6/4/2005, bà Đặng Thị Kim Nguyên (Phó chủ tịch
UBND kiêm Trưởng ban Ban quản lý các KCN Đồng Nai) đã nêu 8 thành quả quan trọng
mà Đồng Nai đã đạt được.
1. Góp phần hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý, cải tiến thủ tục hành chính.
Từ thực tiễn của KCN Biên Hòa 2, cùng với sự hình thành và phát triển các KCN
trong cả nước, năm 1994, Chính phủ đã ban hành Nghị định 192/CP về quy chế hoạt động
của KCN. Sau Quy chế KCN, là cơ chế ủy quyền tạo thuận lợi về cải cách thủ tục hành
chính với các doanh nghiệp trong KCN, và tiếp theo nữa là cơ chế quản lý một cửa tại chỗ..
2. Sự phát triển các KCN đã góp phần quan trọng phát triển đô thị và kết cấu hạ
tầng kỹ thuật.
Toàn tỉnh Đồng Nai hiện đang triển khai 128 dự án xây dựng nhà ở và đầu tư hạ tầng
phát triển nhà ở, với tổng diện tích hơn 1.370 ha do 40 chủ đầu tư. Các kết cấu hạ tầng kỹ
thuật cũng phát triển rất nhanh về Điện năng: Đến 2004 các tổng công suất điện trên tính
đạt1.175 MVA, sản lượng tiêu thụ 1.802 triệu kWh, 73.5%; -Nước: Công suất nguồn nước
máy tăng gấp 7 lần lên 197.800 m3/ngày (năm 2004). Nhiều nhà máy nước được đầu tư mới
như Thiện Tân, Long Bình, Nhơn Trạch; về Bưu chính-viễn thông: Năm 2004 đã có
308.655 điện thoại (179.175 máy cố định), và 78 tổng đài điện tử các loại; về Giao thông
vận tải hiện toàn tỉnh có 3.302 tuyến giao thông với tổng chiều dài 6.156 km, nhiều khu
cảng lớn như Gò Dầu-Phước An trên sông Thị Vải, Phú Hữu trên sông Nhà Bè-Lòng Tàu,
khu cảng trên sông Đồng Nai đang định hình..
3. Phát triển KCN và thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư đã thu hút mạnh mẽ
các dự án đầu tư trong và ngoài nước.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 122 doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trung ương và 50
DNNN địa phương hoạt động, đóng góp 26% GDP và 25% tổng thu ngân sách. Các KCN
Đồng Nai đã thu hút 645 dự án đầu tư trong và ngoài nước với tổng vốn đăng ký 6,8 tỷ
USD. Trong đó các doanh nghiệp trong nước có 150 dự án, với số vốn khoảng 400 triệu
USD.
4. Các KCN đã góp phần đổi mới công nghệ, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
102

11.7 Page 107

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Nhơn Trạch được coi là một điển hình về công nghiệp hóa nông thôn thông qua hình
thức phát triển các KCN. Với 5 KCN đang hoạt động và 4 KCN được quy hoạch chờ Chính
phủ phê duyệt, Nhơn Trạch đang chuyển mình từ một huyện thuần nông thành khu vực
công nghiệp phát triển với các khu đô thị, khu thương mại lớn, cơ sở hạ tầng phát triển
nhanh và ổn định.
5. Các KCN đã góp phần hình thành và tăng nhanh các hoạt động dịch vụ:
Thực tiễn cho thấy, một số loại hình dịch vụ đã hình thành và phát triển cùng với qúa
trình phát triển các KCN, như; dịch vụ cung cấp suất ăn công nghiệp, dịch vụ nhà trọ, mạng
lưới chợ, siêu thị, vui chơi, giải trí, dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu, khai thuế
hải quan, dịch vụ tư vấn, dịch vụ xử lý rác công nghiệp, dịch vụ cung ứng lao động, vận tải
hàng hóa.
6. Góp phần quan trọng trong giải quyết việc làm, khuyến khích học tập, nâng cao
dân trí và thực hiện các chính sách xã hội.
7. Sự phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế, nhất là khu vực dân doanh và
ĐTNN đã góp thêm kinh nghiệm thành lập các tổ chức chính trị, xã hội trong doanh
nghiệp
Hiện đã có 54 chi bộ đảng trong doanh nghiệp dân doanh và ĐTNN với 1.112 đảng
viên; 267 tổ chức công đoàn trong các KCN, trong đó có 217 công đoàn cơ sở tại các doanh
nghiệp dân doanh và ĐTNN; 116 cơ sở đoàn với 7.452 đoàn viên trong các doanh nghiệp.
8. Góp phần phát triển quan hệ hợp tác trong nước và quốc tế.
Đồng Nai đã hợp tác với TP.HCM trong việc chuẩn bị đầu tư KCN tại huyện Thống
Nhất và tạo thuận lợi cho một số doanh nghiệp TP.HCM đầu tư xây dựng hạ tầng các KCN
Đồng Nai như KCN dệt may Nhơn Trạch, KCN Nhơn Phú, KCN Nhơn Trạch 6. Ngoài ra
tỉnh còn tham dự các chương trình hợp tác bảo vệ nguồn nước sông Đồng Nai, phát triền
tổng thể quy hoạch vùng, dự kiến hình thành các khu đô thị, các công trình dịch vụ phục vụ
chung toàn vùng..
Tỉnh cũng thiết lập mối quan hệ hợp tác song phương với một số địa phương tại các
nước, như: với vùng Rhône-Alpes (Pháp), tỉnh Kyongsangnam (Hàn Quốc), tỉnh Ternopol
(Ucraina), Giang Tô (Trung Quốc), tỉnh Choburi (Thái Lan)… trên các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, xã hội, giáo dục-đào tạo, môi trường.
33. Thiên Vương. Đồng Nai tích cực hiện thực hóa khát vọng nâng cao đời sống nhân
dân / Thiên Vương // https://nhandan.vn. 2025. Ngày 02 tháng 02.
Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành đồng bộ những giải pháp đột phá, thúc đẩy
phát triển kinh tế-xã hội gắn liền với phát triển con người, bảo đảm an sinh xã hội, Ðảng bộ
và chính quyền tỉnh Ðồng Nai đã không ngừng nâng cao đời sống nhân dân ngày càng
thịnh vượng, hạnh phúc và làm tròn sứ mệnh thiêng liêng này trong mọi hoàn cảnh.
Đồng Nai đã làm được rất nhiều việc
Dân số tỉnh Ðồng Nai hiện vào khoảng hơn 3,2 triệu người. Bảo đảm an sinh xã hội,
bảo vệ môi trường, phát triển xanh, bền vững, không hy sinh tiến bộ, công bằng, an sinh xã
hội để chạy theo tăng trưởng đơn thuần, cả hệ thống chính trị trên địa bàn Ðồng Nai luôn
103

11.8 Page 108

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
chú trọng nhất quán tinh thần này trong chiến lược phát triển, thông qua những hành động
chăm chút thiết thực, nhân văn.
Một góc trung tâm đô thị Biên Hòa, tỉnh Ðồng Nai
GRDP bình quân đầu người năm 2024 đạt 148,9 triệu đồng. Tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh
hiện chỉ còn 0,1%. Lũy kế đến cuối năm 2024, Ðồng Nai có 106/116 xã đạt chuẩn nông
thôn mới nâng cao, 33/116 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu, ba huyện hoàn thành
nông thôn mới nâng cao.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế được cải thiện, tăng trưởng kinh tế có bước chuyển
dịch sang chiều sâu. Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục-đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân
dân và bảo đảm an sinh xã hội đạt được những kết quả quan trọng.
Nguồn lực cộng đồng được huy động để thực hiện công tác an sinh xã hội tại tỉnh
Ðồng Nai năm 2024 đạt gần 1.000 tỷ đồng. Nổi bật gần đây là các hoạt động chăm lo Tết
Nguyên đán Ất Tỵ cho gia đình chính sách, công nhân lao động, đồng bào nghèo được cả hệ
thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp ở Ðồng Nai thực hiện chu đáo, rộng khắp. Riêng
hệ thống công đoàn đã chi khoảng 450 tỷ đồng để chăm lo Tết cho đoàn viên, người lao
động.
Tạo điều kiện cho phần lớn người dân tiếp cận, thụ hưởng trực tiếp các cơ hội, thành
quả đổi mới, rút ngắn khoảng cách giàu-nghèo cũng là mối quan tâm đặc biệt của lãnh đạo
tỉnh hiện nay.
Nhằm bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống người dân, năm 2025, Ðồng Nai đặt
mục tiêu về đích nhiều chương trình như: Thực hiện thành công mục tiêu xóa nhà tạm, nhà
dột nát cho người nghèo; phấn đấu trước ngày 30/4, gia đình chính sách, người có công có
nhà ở đàng hoàng, có mức sống trên trung bình; trẻ em có điều kiện đến trường; người dân
có vốn để làm ăn…
Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Ðồng Nai Cao Văn Quang cho biết,
năm 2025 này, dưới sự định hướng của Trung ương và lãnh đạo của Tỉnh ủy, hệ thống Mặt
trận từ tỉnh đến cơ sở tập trung kêu gọi xóa nhà tạm, nhà dột nát, thực hiện tốt công việc hỗ
trợ các gia đình chính sách, thiết thực hướng đến kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng hoàn
104

11.9 Page 109

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
toàn miền nam, thống nhất đất nước. Cùng với đó, khơi dậy mạnh mẽ phong trào xây dựng
nông thôn mới, đô thị văn minh nhằm chung tay nâng cao đời sống người dân về mọi mặt.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quốc Dũng, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương,
Giám đốc Học viện Chính trị khu vực II, cho rằng, gần 40 năm qua trong quá trình đổi mới,
Ðồng Nai đạt được thành tựu rất quan trọng: GRDP bình quân đầu người trên địa bàn tỉnh
hiện nay đạt hơn 6.000 USD, trong khi cả nước còn dưới 5.000 USD; xây dựng nông thôn
mới cũng là một điểm sáng.
"Tôi cho rằng Ðồng Nai đã làm được rất nhiều việc. Và những mục tiêu mà đất nước
đặt ra, tôi nghĩ là Ðồng Nai bằng sự nỗ lực và lợi thế của mình, sẽ có điều kiện phát triển.
Chúng ta chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam,
tôi thấy Ðồng Nai có nhiều yếu tố đã sẵn sàng cho sự bứt phá đó" - ông Dũng nhận định.
Ðáng quan tâm trong số những mặt hạn chế nổi lên được chính quyền tỉnh nhìn nhận,
đó là kinh tế tăng trưởng chưa thật sự bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng chậm lại.
Phát triển văn hóa chưa tương xứng với phát triển kinh tế. An ninh, trật tự vẫn còn tiềm ẩn
những nhân tố gây mất ổn định. Một số vụ việc khiếu nại, tố cáo (chủ yếu là đất đai) kéo
dài, chưa được giải quyết dứt điểm. Việc xây dựng nhà ở xã hội còn chậm so với kế hoạch...
Đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quốc Dũng gợi mở, phát triển kinh tế thì Ðồng Nai đã
phát triển và tiếp tục sẽ phát triển nữa những đột phá theo tinh thần của Ðảng, vấn đề còn lại
là cố gắng giữ an sinh xã hội ngày càng tốt hơn.
Vì an sinh xã hội làm cho xã hội ổn định, nâng cao đời sống nhân dân ngày càng tốt
hơn. Tôi nghĩ rằng, với những chương trình cụ thể về an sinh xã hội, nhất là nhà ở xã hội
cho lao động thu nhập thấp là vấn đề cần quan tâm. Phải đi vào những cái nhỏ nhất nhằm
bảo đảm những nhu cầu trước hết là tối thiểu của người dân, từ đó nâng lên- ông Dũng đề
xuất.
Lãnh đạo tỉnh Ðồng Nai quyết tâm đưa tăng trưởng kinh tế ở mức hai con số, GRDP
bình quân đầu người đạt khoảng 158,7 triệu đồng/người trong năm 2025. Tỉnh sẽ thường
xuyên quan tâm tạo chuyển biến các chỉ tiêu về môi trường nhằm duy trì không gian trong
lành cho người dân ở địa bàn thủ phủ công nghiệp, đồng thời tiếp tục nỗ lực nâng chất hàng
loạt chỉ tiêu về xã hội, giáo dục-đào tạo liên quan trực tiếp đến kết quả nâng cao chất lượng
đời sống nhân dân.
Tỉnh phấn đấu có thêm ít nhất tám xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, bốn xã đạt
chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu, ba huyện hoàn thành nông thôn mới nâng cao, một huyện
hoàn thành nông thôn mới kiểu mẫu; giảm 15% số hộ nghèo trên tổng số hộ nghèo A; bảo
đảm tỷ lệ 10 bác sĩ/10.000 dân, tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 95%; hoàn thành và
đưa vào sử dụng 98 căn nhà ở xã hội; tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch đạt chuẩn ở đô thị đạt
hơn 90%, ở nông thôn hơn 85%; tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 70%.
Theo Chánh Văn phòng Tỉnh ủy Viên Hồng Tiến, trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ đề ra
trong nội dung nghị quyết năm 2025, các đơn vị, địa phương rà soát thật kỹ việc thực hiện
các nghị quyết chuyên đề của Tỉnh ủy về phát triển văn hóa; bồi thường, hỗ trợ, tái định cư;
105

11.10 Page 110

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
thu hút, hỗ trợ giáo viên và đội ngũ cán bộ y tế. Việc đánh giá hiệu quả nghị quyết đi vào
cuộc sống là cơ sở để đưa ra giải pháp tối ưu hơn cho thời gian tới.
Tập trung cao nhất cho nhiệm vụ cùng với Ban Chấp hành Ðảng bộ tỉnh quyết tâm
xây dựng Ðồng Nai phát triển văn minh, hiện đại; củng cố vững chắc quốc phòng an ninh,
xây dựng xã hội an toàn lành mạnh và các tầng lớp nhân dân có đời sống ấm no, hạnh phúc
cũng là thông điệp của Bí thư Tỉnh ủy Ðồng Nai Vũ Hồng Văn phát biểu nhận trọng trách
người đứng đầu đảng bộ tỉnh mới đây.
34. Văn Gia. Những dấu ấn nổi bật trong phát triển kinh tế / Văn Gia //
https://baodongnai.com.vn. 2020. Ngày 14 tháng 10.
Hơn 45 năm kể từ Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, gần 35 năm
thực hiện công cuộc đổi mới, cùng nhịp phát triển chung của cả nước, Đồng Nai đã đạt được
những thành tựu vượt bậc trong phát triển kinh tế - xã hội.
Một số thành tựu kinh tế nổi bật của Đồng Nai đến năm 2020
(Thông tin: Văn Gia - Đồ họa: Hải Quân)
Nền công nghiệp phát triển nổi bật với hàng loạt khu công nghiệp (KCN), nhà máy
mọc lên, cùng với đó, hội nhập, làm ăn cùng quốc tế ngày càng phát triển và xây dựng được
hệ thống đô thị đồng bộ, hiện đại là cơ sở để Đồng Nai có những bước tiến mạnh mẽ trong
tương lai
* “Cái nôi” phát triển khu công nghiệp
Một trong những lĩnh vực ưu tiên của Đồng Nai là phát triển công nghiệp và xây
dựng các KCN. Chính các KCN đã trở thành địa điểm thu hút đầu tư, tạo động lực phát
triển, giúp Đồng Nai trở thành vùng kinh tế phát triển năng động hàng đầu của cả nước.
Từ chỗ chỉ có một KCN duy nhất trước ngày giải phóng, đến nay Đồng Nai đã quy
hoạch 35 KCN với tổng diện tích trên 12 ngàn ha, trong đó 31 khu được đầu tư hạ tầng hoàn
thiện đi vào hoạt động. Các KCN Đồng Nai đã thu hút được trên 1.800 dự án có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng vốn đầu tư gần 31 tỷ USD đến từ 45 quốc gia, vùng
lãnh thổ và lấp đầy trên 85% diện tích đất cho thuê.
Các KCN đã tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trên địa bàn đạt 12,5% trong
giai đoạn 2006-2015 và từ 8-9% từ năm 2016 đến nay. Bên cạnh đó, các KCN đã tạo việc
106

12 Pages 111-120

▲back to top

12.1 Page 111

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
làm, thu nhập ổn định cho trên 600 ngàn công nhân và đóng góp trên 50% tổng nguồn thu
ngân sách của tỉnh. Theo ông Cao Tiến Sỹ - Trưởng ban Quản lý các KCN Đồng Nai, khi
các dự án hạ tầng lớn được đầu tư, nhất là Cảng hàng không quốc tế Long Thành, sẽ mở ra
nhiều cơ hội, nhiều quỹ đất mới để Đồng Nai tiếp tục phát triển các KCN, thu hút thêm các
nhà đầu tư.
Trên cơ sở đề xuất của các địa phương, sẽ có 8 KCN trên địa bàn Đồng Nai được bổ
sung vào quy hoạch hoặc mở rộng quy mô đầu tư với tổng diện tích gần 5 ngàn ha. Từ kinh
nghiệm qua hơn 30 năm phát triển công nghiệp và thu hút đầu tư, những KCN mới của
Đồng Nai được xác định là những KCN hiện đại, thu hút các dự án công nghệ cao, giá trị
gia tăng lớn, sử dụng ít lao động và thân thiện với môi trường nhằm hiện thực hóa mục tiêu
duy trì tốc độ phát triển nhanh và bền vững mà tỉnh đề ra.
“Chúng tôi cũng đang nghiên cứu để đề xuất tỉnh phát triển các KCN mới, có tính
chất chuyên sâu, đạt hiệu quả cao hơn về kinh tế, môi trường, xã hội như: KCN liên kết
ngành, KCN hỗ trợ, KCN sinh thái... Thường xuyên tổ chức các cuộc họp giao ban doanh
nghiệp định kỳ để ghi nhận các ý kiến góp ý của DN để chủ động tháo gỡ” - ông Cao Tiến
Sỹ cho hay.
Là địa phương có kinh tế phát triển
mạnh, cùng với xu thế hội nhập diễn ra mạnh
mẽ trên thế giới, quy mô thị trường của các DN
ở Đồng Nai cũng được mở rộng, không chỉ
trong nước mà cả quốc tế. Hàng loạt các hiệp
định thương mại tự do giữa Việt Nam với các
đối tác lớn tạo điều kiện để Đồng Nai hợp tác
sản xuất, kinh doanh với nước ngoài. Chủ tịch
UBND tỉnh Cao Tiến Dũng nhấn mạnh, Đồng
Nai sẽ chủ động chuẩn bị sẵn các điều kiện
tham gia vào hội nhập sâu với thế giới để tăng
kim ngạch xuất khẩu, xuất siêu. Thu hút nguồn
vốn FDI vào lĩnh vực công nghiệp công nghệ
cao để tăng giá trị gia tăng cho ngành công
nghiệp của Đồng Nai.
* Tiềm lực và quy mô nền kinh
tế liên tục được mở rộng
Kinh tế Đồng Nai những năm qua
luôn tăng trưởng ổn định, chỉ riêng giai
đoạn 2016-2020, tổng sản phẩm trên địa
bàn tỉnh (GRDP) bình quân mỗi năm tăng
8,12%, năm sau cao hơn năm trước. Quy
mô GRDP tính theo giá hiện hành đến
năm 2020 đạt gần 400 ngàn tỷ đồng
(tương đương 17,2 tỷ USD), gấp 1,7 lần
so với năm 2015. Mô hình tăng trưởng
kinh tế có bước chuyển đổi theo xu
hướng tăng sự đóng góp của khoa học -
công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Ngoài ra, cơ cấu ngành kinh tế
chuyển dịch tích cực, tăng tỉ trọng GRDP
ngành Công nghiệp - xây dựng, ngành Dịch vụ và giảm ngành Nông nghiệp, đúng định
hướng nghị quyết. GRDP bình quân đầu người đến năm 2020 đạt 124 triệu
đồng/người/năm, tương đương khoảng 5.300 USD, tăng hơn 1,7 lần so với năm 2015, gấp
1,7 lần so với cả nước. Cơ cấu lao động dịch chuyển mạnh mẽ từ khu vực nông nghiệp sang
các khu vực công nghiệp và dịch vụ.
Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện, cạnh tranh minh bạch, bình đẳng hơn,
tạo điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp phát triển. Kinh tế
tư nhân phát triển mạnh mẽ và đa dạng, đóng góp ngày càng quan trọng vào phát triển kinh
tế - xã hội, thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, thu nhập cho người lao động. Kinh tế có vốn
107

12.2 Page 112

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
đầu tư nước ngoài phát triển mạnh với nhiều dự án được cấp mới và bổ sung tăng vốn thuộc
các tập đoàn lớn, sử dụng công nghệ hiện đại, thuộc những ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên
phát triển của tỉnh, góp phần đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý và năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế. Công tác hỗ trợ DN cũng được quan tâm thực hiện, tinh thần khởi
nghiệp và đổi mới sáng tạo được khơi dậy mạnh mẽ, được người dân và doanh nghiệp
hưởng ứng và tích cực tham gia triển khai với nhiều hoạt động phong phú và hiệu quả. Đến
nay, toàn tỉnh đã có trên 41 ngàn DN được thành lập và hoạt động với tổng vốn đăng ký trên
300 ngàn tỷ đồng.
Trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu, Đồng Nai đã vươn lên trở thành một trong những
tỉnh đứng đầu cả nước, đặc biệt, những năm gần đây, xuất siêu của Đồng Nai luôn là một
trong những tỉnh đứng đầu cả nước, với giá trị xuất siêu từ 2-3 tỷ USD.
* Xây dựng, nâng cấp hàng loạt đô thị
Đầu tiên phải nói đến là TP.Biên Hòa, đô thị trung tâm của Đồng Nai, đi lên từ
những bộn bề gian khó sau ngày giải phóng, đô thị Biên Hòa nay đã khoác lên mình “tấm
áo” mới năng động. Nằm ở cửa ngõ Vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ, là một trong 3 trục
tam giác tăng trưởng TP.HCM - Biên Hòa - Vũng Tàu, những năm qua, hàng loạt công
trình, dự án lớn đã được đầu tư xây dựng như: cầu An Hảo, cầu Hóa An… đã góp phần tạo
nên một đô thị Biên Hòa hiện đại và giàu sức sống. Biên Hòa đã được Chính phủ công nhận
là đô thị loại I từ năm 2016. Từ ngày 1-7-2019, 6 xã của thành phố tiếp tục được nâng cấp
thành phường, như vậy đơn vị hành chính của TP.Biên Hòa gồm 29 phường, 1 xã.
Trong gần 35 năm đổi mới, một trong những dấu ấn nổi bật của Đồng Nai là phát triển
khu công nghiệp. Trong ảnh: Một góc Khu công nghiệp Long Khánh. Ảnh: V. Gia
Cùng với sự phát triển của TP.Biên Hòa, đầu tháng 6-2019, Long Khánh đã tổ chức
lễ công bố Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thành lập 5 phường và nâng
cấp TX.Long Khánh trở thành TP.Long Khánh, sớm hơn 1 năm so với kế hoạch đề ra.
108

12.3 Page 113

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
TP.Long Khánh có tổng diện tích gần 192km2, dân số trên 171 ngàn người và có 15
đơn vị hành chính cấp xã, gồm 11 phường, 4 xã. Trong đó, 5 xã vừa được nâng cấp lên
phường là Xuân Lập, Xuân Tân, Bảo Vinh, Suối Tre và Bàu Sen.
Trong quy hoạch Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến
năm 2050, TP.Long Khánh sẽ trở thành đô thị loại II vào năm 2025 và là một đô thị xanh,
văn minh, hiện đại, phát triển bền vững.
Sau nhiều năm phấn đấu, 2 huyện Thống Nhất và Nhơn Trạch đã được công nhận có
TT.Dầu Giây và Hiệp Phước. TT.Dầu Giây (H.Thống Nhất) được coi là đô thị “cửa ngõ”
của giao thông Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam vì có các tuyến giao thông huyết mạch đi
qua như: quốc lộ 1, quốc lộ 20, đường cao tốc TP.HCM - Long Thành - Dầu Giây, tuyến
đường sắt Bắc - Nam. Trong khi đó, TT.Hiệp Phước (H.Nhơn Trạch) được xem là thị trấn
của công nghiệp, dịch vụ do trên địa bàn và khu vực xung quanh có nhiều khu công nghiệp
và là nơi tập trung dân cư từ nơi khác đến sinh sống và làm việc.
Cũng trong năm 2019, các thị trấn của 2 huyện Long Thành và Trảng Bom được Bộ
Xây dựng công nhận đạt tiêu chí đô thị loại IV. Đây là 2 thị trấn quan trọng tạo nên mảng
ghép hoàn thiện cho khu vực phát triển mạnh về đô thị của Đồng Nai kéo dài từ TP.Biên
Hòa qua H.Long Thành, H.Nhơn Trạch nối với H.Trảng Bom, Dầu Giây, TP.Long Khánh.
Khu vực này cũng là khu vực chính được định hình để phát triển đô thị Đồng Nai trong
tương lai.
Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Nguyễn Phú Cường
nhận định, việc nâng cấp các đô thị sẽ là động lực cho các địa phương tiếp tục đề ra các giải
pháp thiết thực để phát triển trong thời gian tới, đưa Đồng Nai trở thành một trong những
tỉnh đầu tàu trong phát triển kinh tế, xã hội của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Để sự
phát triển được bền vững, các đô thị trong tỉnh phải có sự liên kết, hài hòa chung trong tổng
thể quy hoạch vùng, cùng nỗ lực triển khai các dự án đã được quy hoạch, tạo diện mạo mới,
sức sống mới cho tương lai.
35. Văn Quân. Đồng Nai: Gần 50 năm nỗ lực vượt bậc / Văn Quân //
https://tuoitrethudo.vn. 2024. Ngày 30 tháng 4.
TTTĐ - Tỉnh Đồng Nai được thành lập vào tháng 1/1976 với nền kinh tế ban đầu
gặp nhiều khó khăn, thách thức. Đến nay, trải qua gần 50 năm nỗ lực, Đồng Nai “vươn
mình” trở thành “top đầu” các tỉnh thành có đóng góp nguồn thu ngân sách lớn và đạt
GRDP cao trên cả nước.
Đồng Nai đi đầu về khu công nghiệp
Theo báo cáo, từ khi thành lập, kinh tế của tỉnh Đồng Nai phát triển theo 3 giai đoạn.
Giai đoạn từ năm 1975-1985, là thời kỳ thực hiện cơ chế tập trung bao cấp trong kinh tế,
chủ yếu là khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục phát triển nông nghiệp, tiến hành hợp
tác hóa trong nông nghiệp.
109

12.4 Page 114

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Khu công nghiệp Biên Hòa 2, tỉnh Đồng Nai tỷ lệ phủ kín gần như tối đa
Từ năm 1986-1990, bắt đầu thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi quản lý nhà nước
từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế
của tỉnh bước đầu phát triển cả về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp.
Từ năm 1990-2020, với chủ trương đẩy mạnh thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài
để phát triển kinh tế, tỉnh phát triển từ một lên 32 khu công nghiệp, giải quyết cho trên
1.200.000 lao động. Đồng Nai trở thành một tỉnh trong khu kinh tế trọng điểm phía Nam
phát triển theo hướng công nghiệp và hiện đại.
Đến cuối năm 2023, Đồng Nai có 33 khu công nghiệp (KCN) được thành lập với tổng
diện tích hơn 10,5 nghìn héc ta. Trong đó, 31 KCN đang hoạt động, 1 KCN trong giai đoạn
thu hồi đất và đầu tư xây dựng hạ tầng, thu hút đầu tư (KCN Công nghệ cao Long Thành); 1
KCN vừa được thành lập trong tháng 7-2023 (KCN Long Đức 3), 32/33 KCN đã cho thuê
được hơn 6 nghìn héc ta.
Tỉnh Đồng Nai đang có “sức hút” lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài
110

12.5 Page 115

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Tỉnh Đồng Nai đã thu hút 44 quốc gia và vùng lãnh thổ đang hoạt động đầu tư tại 31
KCN với tổng số 2.092 dự án. Trong đó gồm 1.440 dự án vốn đầu tư nước ngoài với tổng
vốn đầu tư 29,5 tỷ USD, vốn thực hiện 22,7 tỷ USD và 652 dự án trong nước với tổng vốn
đầu tư hơn 79,6 nghìn tỷ đồng.
Những quốc gia, vùng lãnh thổ đứng đầu trong đầu tư vào Đồng Nai là Hàn Quốc, Đài
Loan (Trung Quốc) và Nhật Bản.
Trong năm 2023, các KCN trên địa bàn tỉnh đã thu hút được thêm 63 dự án FDI mới
với tổng vốn đầu tư là 317,65 triệu USD; điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho
573 dự án FDI; cấp mới 13 dự án trong nước với tổng vốn đầu tư 1.888 tỷ đồng. Điều chỉnh
38 dự án trong nước.
Hết quý I/2024, Đồng Nai là địa phương đứng thứ 6 cả nước về thu hút doanh nghiệp
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Cụ thể, tỉnh Đồng Nai thu hút mới được 27 dự án đầu tư trong nước và nước ngoài
(gồm cấp mới 3 dự án trong nước với 1.470,69 tỷ đồng tăng gấp 3,08 lần về số vốn thu hút
cùng kỳ và cấp mới 24 dự án nước ngoài với 291,47 triệu USD tăng gấp 5 lần về số vốn thu
hút so cùng kỳ).
Kinh tế phát triển vượt bậc
Từ những định hướng đúng đắn, những quyết sách sáng suốt của Đảng và Nhà nước,
quyết liệt trong phát triển kinh tế của Đảng bộ, Chính quyền địa phương đã đưa tỉnh Đồng
Nai lên “top đầu” các tỉnh thu ngân sách lớn cho Nhà nước.
Lãnh đạo tỉnh Đồng Nai phát biểu trong cuộc họp các tỉnh vùng Đông Nam Bộ
Đại diện UBND tỉnh Đồng Nai cho biết, trong năm 2023, ảnh hưởng của dịch bệnh
COVID-19, cuộc xung đột giữa Nga - Ukraine và chiến tranh dải Gaza bùng phát dẫn đến
kinh tế toàn cầu suy giảm kéo theo kinh tế của cả nước cũng như Đồng Nai gặp nhiều khó
khăn.
Tuy nhiên, tại Đồng Nai, nhiều ngành vẫn giữ được mức tăng trưởng dương. Đây là nỗ
lực rất lớn trong điều hành của Tỉnh ủy, UBND tỉnh cũng như của các doanh nghiệp.
Cụ thể, chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2023 của tỉnh tăng khoảng 5,45% so với cùng
kỳ; Tình hình sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản năm 2023 cơ bản ổn định, giá trị sản
111

12.6 Page 116

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
xuất nông, lâm, thủy sản (giá so sánh 2010) năm 2023 đạt trên 49.000 tỷ đồng, tăng khoảng
4,14% so cùng kỳ.
Trong năm 2023 tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh GRDP (theo giá so sánh 2010) đạt
246.448,8 tỷ đồng, tăng 5,3% so với cùng kỳ. GRDP bình quân đầu người năm 2023 (theo
giá hiện hành) dự ước đạt 139,75 triệu đồng (tương đương 5.996,2 USD)
Bước sang năm 2024, đối mặt với nhiều khó khăn do ảnh hưởng thị trường thế giới,
tỉnh Đồng Nai vẫn vững vàng vượt qua nhiều khó khăn để có nhiều thành quả trong phát
triển kinh tế.
Đơn cử như hết quý I/2024 tổng sản phẩm quốc nội (GRDP) đạt 58.753,64 tỷ đồng,
tăng 5,85% so với cùng kỳ; các ngành, lĩnh vực chủ yếu tiếp tục tăng trưởng, chỉ số phát
triển sản xuất công nghiệp tăng 5,1%; sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản thuận
lợi và ổn định, giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản dự ước tăng 3,57% so cùng kỳ.
Tổng thu ngân sách Nhà nước trên 15.554 tỷ đồng, đạt 28% so vi dtoán và tăng 1%
so vi cùng k(trong đó: Thu nội địa là: 11.228 tỷ đồng, đạt 30% so với dự toán Trung
ương giao và tăng 2% so với cùng kỳ).
Cảng Hàng không Quốc tế Long Thành đang dần lộ diện
An sinh xã hội được triển khai đồng bộ
Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đồng Nai, các lĩnh vực văn hóa xã hội, chính sách,
an sinh xã hội tiếp tục được triển khai đồng bộ; quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội
được giữ vững; công tác đối ngoại được triển khai chủ động, tích cực và hiệu quả.
Trong 3 tháng năm 2024, tỉnh đã giải quyết việc làm cho 22.511 lượt người (đạt
28,14% kế hoạch năm; tăng 4,99% so với cùng kỳ năm 2023); ban hành 8.351 quyết định
hưởng trợ cấp thất nghiệp (tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước); tư vấn và giới thiệu việc
m cho số lao động thất nghiệp 8.456 lượt người, hỗ trợ học nghề cho 233 người (tăng
48,7% so với cùng kỳ năm trước).
Tỉnh chi trợ cấp thất nghiệp và hỗ trợ học nghề theo quyết định gần 273 tỷ đồng, cho
243 hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo vay mới với số tiền 16, 82 tỷ đồng.
Công tác đối ngoại được triển khai chủ động, tích cực và hiệu quả. Thông tin, truyền
thông được tăng cường, nhất là truyền thông các chính sách của Trung ương và của tỉnh về
hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, đời sống người dân trên địa bàn.
112

12.7 Page 117

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Tỉnh cũng chú trọng đấu tranh phản bác, ngăn chặn thông tin xấu, độc và xử nghiêm
các sai phạm; làm tốt công tác phòng ngừa, đấu tranh xử lý tội phạm và các hành vi vi phạm
pháp luật...
Đua thuyền trên sông Đồng Nai
“Đột phá” đầu tư công
Trước những cố gắng, nỗ lực của Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân tỉnh Đồng Nai
đã tạo ra những thành quả là sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, xã hội khi tốc độ đô thị hóa,
hiện đại hóa đang ngày một đồng bộ và khẳng định vai trò trục kết nối bền vững kinh tế
trong vùng Đông Nam Bộ.
Với vị thế có vai trò địa lý là tỉnh trung gian kết nối các tỉnh Tây Ninh, Bình Phước,
Bình Dương, Lâm Đồng về phía cảng biển hiện đại là tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và đô thị sầm
uất TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai đang có nhiều cơ hội để phát triển mạnh mẽ và bền vững
hơn nữa khi có nhiều “siêu dự án” đã và đang được triển khai đồng loạt như: Dự án Cảng
hàng không Quốc tế Long Thành (Sân bay Long Thành); Cao tốc TP HCM - Long Thành -
Dầu Giây; Cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu; đường Vành đai 3, cao tốc Bến Lức - Long
Thành; đường sắt vùng Đông Nam Bộ và sắp tới đường Vành đai 4 - TP HCM…
Đại diện UBND tỉnh Đồng Nai cho biết, đây vừa là cơ hội vừa là thách thức. Để khắc
phục, năm 2024, tỉnh Đồng Nai tập trung các giải pháp đột phá để tạo sự chuyển biến tích
cực nhằm thay đổi kết quả mạnh mẽ các mục tiêu theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ
XI của tỉnh đề ra.
Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với nâng cao năng lực cạnh tranh trong phát
triển kinh tế; tập trung tháo gỡ những điểm nghẽn cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội như:
Giao thông gắn kết với vận tải đa phương thức, dịch vụ logistis; nguồn nhân lực chất lượng
cao; cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh;
phát triển các ngành kinh tế chủ lực có giá trị gia tăng cao; tăng cường sử dụng năng lượng
tái tạo thay cho năng lượng truyền thống.
Tỉnh Đồng Nai cũng huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, vốn đầu tư phát
triển toàn xã hội. Đặc biệt, tỉnh ưu tiên bố trí vốn cho các công trình giao thông kết nối, các
dự án có tính lan tỏa cao.
113

12.8 Page 118

▲back to top
Thư mục chuyên đề: “Đồng Nai -50 năm trang sử hào hùng, tự hào vững bước”
Tỉnh Đồng Nai đang triển khai nhiều công trình, dự án lớn của quốc gia
Bên cạnh đó, tỉnh tập trung triển khai các giải pháp để thúc đẩy khai thác hiệu quả chỉ
tiêu đất công nghiệp được duyệt; rà soát các vị trí không khả thi trong khâu bồi thường giải
phóng mặt bằng để đưa ra khỏi quy hoạch; tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ đầu tư hạ tầng
kỹ thuật, tăng tính sẵn sàng trong thu hút đầu tư trong và ngoài nước, đón dòng đầu tư mới
từ sự dịch chuyển của các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đồng Nai cũng tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, thực hiện xây dựng bộ máy hành
chính Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, hành
động thiết thực, hiệu lực, hiệu quả, bám sát thực tiễn, lấy người dân, doanh nghiệp làm
trung tâm phục vụ; phát triển, hoàn thiện hệ thống cổng dịch vụ công trực tuyến, phần mềm
một cửa điện tử của tỉnh kết nối với cổng dịch vụ công quốc gia để cung cấp các dịch vụ
công trực tuyến mức độ 3, 4 theo chỉ tiêu, lộ trình đề ra.
Tỉnh Đồng Nai tiếp tục thực hiện các kế hoạch chuyển đổi số đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030; phát triển kinh tế số và xã hội số tỉnh Đồng Nai đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030; đẩy mạnh cơ cấu lại ngành nông nghiệp; phát triển nông nghiệp sinh
thái, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo hướng sản xuất hàng
hóa gắn với thực hiện có hiệu quả chương trình xây dựng Nông thôn mới nâng cao, kiểu
mẫu, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn.
114

12.9 Page 119

▲back to top
BẢNG TRA TÊN TÁC GIẢ
STT
TÊN TÁC GIẢ
1 Cao Tiến Dũng
2 Đỗ Trung Tiến
3 Đức Việt
4 Dương Đình Quảng
5 Hồ Sơn Đài
11 Hoàng Mạnh Anh
6 Huỳnh Việt Thắng
7 Minh Thu
8 Ngọc Liên
9 Nguyễn Bá Dương
10 Nguyễn Đình Tương
12 Nguyễn Hồng Quân
13 Nguyễn Phú Trọng
14 Nguyễn Quốc Hoàn
15 Nguyễn Tân Cương
16 Nhật Quang
17 Phan Văn Trang
18 Thiên Vương
19 Trần Nam Chuân
20 Trần Việt Khoa
21 Văn Gia
22 Văn Quân
SỐ THỨ TỰ BIỂU GHI
28
14, 15, 16, 17
18, 19
4
20
7
21
22
31
6
7
8
10
23
9
24
25, 26
33
11
12
34
35
TRANG
89
54, 56, 59, 62
65, 68
11
70
26
71
74
98
19
25
31
40
77
33
78
79, 83
103
45
48
106
109

12.10 Page 120

▲back to top
BẢNG TRA TÊN TÀI LIỆU
STT
1 Bối cảnh tháng 3
TÊN TÀI LIỆU
SỐ THỨ TỰ
BIỂU GHI
TRANG
14
54
2 Chỉ đạo chiến lược của Bộ Chính trị mùa Xuân 1975
1
1
3
Chiến dịch Hồ Chí Minh (26/4 – 30/4/1975) giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhất đất nước
2
6
4
Chiến dịch Hồ Chí Minh trận quyết chiến chiến lược giành
toàn thắng
4
11
5 Chiến dịch lộ 3 - Mở rộng địa bàn Đông Bắc Xuân Lộc
13
52
6 Chiến dịch mang tên Hồ Chí Minh
3
8
7 Chiến dịch Xuân Lộc - Long Khánh
15
56
Chiến lược quân sự đúng đắn của Đảng - hạt nhân cốt lõi trong
8 đại thắng mùa Xuân 1975
8
31
Đại thắng mùa Xuân 1975 - Bài học về sự lãnh đạo, chỉ đạo
9 của Đảng
7
25
Đại thắng mùa Xuân 1975 - Sức mạnh của niềm tin chiến
10
thắng và ý chí thống nhất Tổ quốc
6
19
11 Đập tan cánh cửa thép
18
65
Đồng Nai tích cực hiện thực hóa khát vọng nâng cao đời sống
12
33
103
nhân dân
13 Đồng Nai: Gần 50 năm nỗ lực vượt bậc
3
109
14 Đường về Biên Hòa
16
59
15 Hành trình 50 năm đổi thay và vươn mình
31
98
16 Khóa chặt sân bay Biên Hòa
24
78
17 Kinh tế Việt Nam và tỉnh Đồng Nai thời kỳ đổi mới
29
91
18 Kỷ niệm Biên Hòa tháng 4 năm 1975
25
79
19 Lớn mạnh trong vòng kiềm kẹp
19
68
20 5 cánh quân chủ lực quyết hạ 5 mục tiêu chủ yếu
5
18
50 năm thống nhất: Vùng đất anh hùng góp phần làm nên
21
Chiến thắng Xuân Lộc
22 Ngày 20-3-1975, giải phóng Định Quán - Đường 20
30
95
20
70
Nghệ thuật tạo sức mạnh về lực lượng và thế trận trong Chiến
23
12
48
dịch Hồ Chí Minh
24 Người nữ anh hùng nơi "Cánh cửa thép" năm xưa
22
74
25 Nhớ ngày giải phóng Biên Hòa
21
71

13 Pages 121-130

▲back to top

13.1 Page 121

▲back to top
26 Những dấu ấn nổi bật trong phát triển kinh tế
34
106
27 Quân dân Biên Hòa bám trụ kiên cường chiến thắng vẻ vang
26
83
28 Sư đoàn 6 ra quân đánh thắng trận đầu
17
62
29 8 thành tựu của Đồng Nai
32
101
30 Tầm vóc lịch sử của Đại thắng mùa Xuân 1975
11
45
31 Tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng toàn tỉnh
27
86
Thắng lợi trên hướng Đông Nam trong Chiến dịch Hồ Chí
32 Minh - Bài học đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
9
33
quốc hiện nay
Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng
33 lợi của đường lối và nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự
10
40
lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng
Tỉnh Đồng Nai đẩy mạnh phát triển kinh tế gắn với củng cố,
34 tăng cường quốc phòng, an ninh
28
89
35 Trận đánh sau cùng của những người lính đặc công
23
77