và Ngô Nhân Tịnh), "Thoái thực trung biên tập", "Minh Bột di ngư", "Quan quang tập'',
"Khả dĩ tập", "Tự truyện", "Lịch đài kỷ nguyên", "Khương Tế lục"...
Có lẽ nổi tiếng hơn cả trong di cảo văn chương của Trịnh Hoài Đức là tác phẩm
"Gia Định thành thông chí" được bao thế hệ người đọc yêu mến. Các nhà sử học coi
đây là sách gối đầu giường mỗi khi nghiên cứu về đất phương Nam vào lúc "từ độ
mang gươm đi mở cõi, trời Nam thương nhớ đất Thăng Long". Ông viết về xứ Gia
Định cách đây gần 200 năm với con mắt của một sử gia có tài. Sách ghi lại mọi điều
về xứ Gia Định, nơi ông từng làm Tổng trấn. Sách hay đến nỗi sau khi viết xong, dâng
vua Minh Mạng trong dịp vua xuống chiếu cầu sách cũ, đã được vua khen và ban tặng.
Vài chục năm sau, một học giả người Pháp là ông Aubaret thấy sách có giá trị đã dịch
sang tiếng Pháp. Sau đó, sách lại được nhiều người viết sử ở Nam bộ trích dẫn, dịch.
Đến năm 1998, nhà xuất bản Giáo dục mới in lại bản dịch và Giáo sư Đào Duy Anh
hiệu đính, được coi là bản hoàn chỉnh nhất.
Lần giở từng trang của "Gia Định thành thông chí" mới thấy cái chất sống động
của xã hội miền Nam ở đầu thế kỷ 19 với các phong tục tập quán của người Việt, người
Hoa, người Khmer cùng chung sức khai phá vùng đất đồng bằng sông Sài Gòn, sông
Đồng Nai một thuở. Trịnh Hoài Đức để tâm hơn khi viết về xứ Nông Nại (nay là Cù
Lao Phố) và thành phố Biên Hòa, quê mẹ của ông. Tác phẩm còn khảo tả khá kỹ các
sản vật của xứ Đồng Nai, Gia Định, các núi sông, khí hậu, việc thành lập các trấn sở
và thành trì cũng như tính cách rất riêng của con người Nam bộ.
Sau 40 năm làm quan dưới triều Nguyễn, Trịnh Hoài Đức luôn tận trung với vua.
Ông là người tài lại gặp lúc các vị vua đầu triều Nguyễn trọng dụng nên đã phát huy
hết khả năng của mình trong khá nhiều trọng trách vua giao. Tuy quyền cao, chức trọng,
nhưng ông vẫn sống cuộc đời thanh liêm trong sáng. Sách "Đại Nam liệt truyện" do
các sử gia triều Nguyễn ca ngợi ông: "Đức không có nhà riêng, vua cho 3.000 quan
tiền và gỗ, gạch ngói, cho làm nhà để làm chỗ nghỉ ngơi tắm gội. Đức bèn làm vườn
quỳ ở phía ngoài cửa Đông. Rồi lại kiêm lĩnh Thượng thư Bộ Lễ". Làm đến Thượng
thư 4 bộ, mà ông không tơ hào chút nào của công. Không nhà riêng, vua thương tình
mới xây nhà cho. Thật là một tấm gương sáng về liêm khiết muôn đời vậy.
Triều Nguyễn cũng không phụ lòng công bộc của Trịnh Hoài Đức. Khi ông mất
vào tuổi 61, Hoàng đế Minh Mạng đã khóc xót thương: "Trẫm nghe tin không ngờ
nước mắt nhỏ xuống, bèn sai nghỉ triều 3 ngày và hậu ban cho sa, gấm, trừu, đoạn, tiền,
gạo, dầu đèn; tặng Thiếu phó Cần chính điện Đại học sĩ, cho tên thụy là Văn Khúc; cho
một tế đàn. Ngày đưa về chôn sai Hoàng tử Miên Hòa đến nhà khâm mạng, ban cho
rượu, điển lệ cấp tuất rất hậu; các bày tôi không ai sánh kịp. Đám tang của Trịnh Hoài
Đức đến Gia Định, Tổng trấn là Lê Văn Duyệt thân hành đi viếng, nói với người rằng:
Hiệp biện họ Trịnh là người đáng khen đời nay, được thấy tôn trọng như thế".