Phó tổng tài Quốc sử quán. Không lâu, nhà vua thăng ông lên Hiệp biện Đại học sĩ,
lãnh cả hai chức Thượng thư bộ Lại và bộ Binh (tương đương Bộ Quốc phòng). Thật
hiếm có một người nào được trọng dụng, giữ những chức vụ quan trọng trong triều
như Trịnh Hoài Đức.
Mùa thu năm 1823 (Quý Mùi), Trịnh Hoài Đức dâng sớ xin nghỉ vì sức khỏe.
Vua đành lòng phải thuận, nhưng sau đó lại mời ra nhậm chức cũ. Thấy sức khỏe
càng lúc càng yếu đi, Trịnh Hoài Đức lại xin cáo quan. Ông mất sau đó hai năm, Ất
Dậu (1825), lúc mới 61 tuổi.
Trịnh Hoài Đức mất, nhà vua đã cho bãi triều ba ngày và truy tặng là Thiếu
phó Cần chánh điện Đại học sĩ, ban tên thụy là Văn Khác. Đám tang ông được tổ
chức trọng thể. Vua Minh Mạng còn phái Hoàng thân Miên Hoàng đưa thi hài Trịnh
Hoài Đức về chôn tại quê nhà, làng Bình Trước, huyện Phước Chánh, phủ Phước
Long, tỉnh Biên Hòa (nay là phường Trung Dũng, Biên Hòa). Năm 1852, bài vị ông
được thờ ở miếu Trung hưng công thần, nơi thờ tự bậc có công nhất đối với vương
triều. Sang năm 1858, bài vị Trịnh Hoài Đức lại được đem về thờ ở đền Hiền Vương.
Cuộc đời làm quan của Trịnh Hoài Đức thật vinh hiển, ít người sánh được.
Nhưng ông không chỉ là vị quan to mà còn là nhà văn hóa lớn.
Năm 1805, khi đang làm quan ở thành Gia Định, Trịnh Hoài Đức được vua
Gia Long sai “kê khảo sự tích, cương vực, thổ sản trong địa hạt”. Nhân đó, ông đã
viết bộ sách quý Gia Định thành thông chí, một công trình có giá trị cao về địa dư,
lịch sử, văn hóa của cả vùng đất phương Nam. Những hiểu biết sâu sắc và toàn diện
về Nam bộ một thời cho đến nay vẫn không có cuốn sách nào có thể thay thế Gia
Định thành thông chí. Sau khi chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam bộ không lâu,
Bộ trưởng Hải quân và thuộc địa Pháp, Chasseloup, đã ra lệnh dịch và xuất bản bằng
tiếng Pháp cuốn địa chí này.
Trong vòng năm mươi năm cuối thế kỉ XVIII và đầu thế kỉ XIX, ở Nam bộ có
ba nhà thơ tài danh nhất: Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh và Lê Quang Định. Ba
ông đã họp thành nhóm Gia Định tam gia, từ văn đàn của mình là Bình Dương thi
xã (có thêm các thành viên là Hoàng Ngọc Uẩn và Diệp Minh Phụng). Riêng sáng
tác của Trịnh Hoài Đức có tập thơ Cấn Trai thi tập gồm 5 phần: Thối thực truy biên
tập (127 bài thơ); Quan quang tập (152 bài thơ); Khả dĩ tập (gồm 48 bài thơ và văn
xuôi) và Tự truyện (gồm những ghi chép của nhà thơ về gia đình, bước hoạn lộ, đi
sứ, tự bạch về sáng tác...).
Nổi bật trong văn chương Trịnh Hoài Đức là tình yêu sâu nặng đối với quê
hương, đất nước. Ông đã viết khá nhiều bài thơ về từng vùng quê cụ thể: Trấn Biên,