Bắt đầu cơn mưa đạn bắn vào trận địa phòng không, có thêm đạn cối các loại của
địch nổ dồn dập. Đại đội trưởng Nguyễn Viết Quỳ nhô hẳn người lên khỏi mặt hào, hô
vang:
- Chuẩn bị lựu đạn!
Rồi một khẩu trọng liên của Trung đội 2 đỏ rực nòng, không còn đạn bắn ra nữa.
Thêm các khẩu trọng liên ở những trung đội khác khạc lửa và đạn cũng cạn dần. Nhiều
tên lính lê dương đổ gục, song chiếc xe tăng vẫn tìm cách chồm vào trận địa phòng không.
Đột nhiên có quả đạn cối 81mm nổ cạnh hào chỗ Đại đội trưởng đang đứng chỉ huy. Khói
bụi mịt mù trùm lên, không nghe tiếng anh nữa. Chính trị viên Ngô Hạnh Phúc hô to:
- Đồng chí Bàng thay đồng chí Quỳ chỉ huy!
Đạn cối, moochie lại nổ dồn dập. Nghe rõ cả tiếng những tên lính lê dương xì xồ,
la hét điên cuồng. Chiến xa Chaffee tăng tốc chồm qua chiến hào. Bỗng đồng chí Bàng
ôm ngực lảo đảo, bàn tay đỏ máu. Cũng không còn nghe tiếng Chính trị viên Ngô Hạnh
Phúc.
Giờ các pháo thủ còn sống sót đều bị thương; Đại đội trưởng Nguyễn Viết Quỳ
đang đứng gục đầu trên chiến hào, máu thấm đỏ mảng áo ngực; Chính trị viên Ngô Hạnh
Phúc thì bị vết thương vào đầu nằm ngửa ở đáy hào, hai tay dang ra. Hết lựu đạn, đánh
giáp lá cà! Những chiếc xẻng, xà beng, cuốc chim được chia đều cho những người còn
lại...
Các khẩu đội phòng không đã chiến đấu đến người cuối cùng, chỉ có hai người
sống sót do bị thương nằm lẫn với thi thể quân ta và địch...
Ngày ấy, khi những người thân của liệt sĩ Nguyễn Viết Quỳ tìm đến một nghĩa
trang ở khu vực Hồng Lếch thì dân địa phương cho biết, vào khoảng năm 1960, tất cả
phần mộ ở đây đã được quy tập về nghĩa trang chung, song không biết cụ thể ở nghĩa
trang nào.
Ông Nguyễn Viết Quý, em trai của liệt sĩ Nguyễn Viết Quỳ nhớ lại quá trình đi tìm
mộ anh trai mình:
- Năm 1965, sau khi tốt nghiệp đại học, tôi được phân công về Ty Nông nghiệp Lai
Châu. Trước lúc lên đường nhận công tác, bố mẹ dặn dò tôi lên đấy có điều kiện gần nơi
chiến trường xưa của anh Quỳ, cố tìm xem ngôi mộ anh cụ thể nằm ở đâu. Nơi tôi làm
việc cách trung tâm cánh đồng Mường Thanh hơn 100km, đường sá khó đi, đèo dốc liên
tục, lại không có xe khách, muốn đi thì phải cuốc bộ hoặc đi xe đạp. Có lần tôi đã về vùng
lòng chảo Mường Thanh, đến cả 3 nghĩa trang, nơi chôn cất mấy nghìn liệt sĩ, nhưng tất
cả đều là những ngôi mộ chưa biết tên. Đến cuối năm 1993, đã có một manh mối từ chị
gái tôi là Nguyễn Thị Ngọc Chúc. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Lai Châu
trả lời, có tên tuổi liệt sĩ Nguyễn Viết Quỳ cùng các pháo thủ hy sinh ngày 28-3 đúng như
trong giấy báo tử. Thế là nhân dịp kỷ niệm 40 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, chúng tôi
lên Điện Biên. Một cán bộ chính sách của Sở sau khi lục tìm trong hồ sơ lưu, đưa cho tôi
một quyển vở cũ, bảo là trong đó có ghi danh sách liệt sĩ an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ
Độc Lập. Tôi hồi hộp mở cuốn vở, trang đầu vẽ sơ đồ mộ chí, bên cạnh là những dòng